Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 47
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
93
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm lẻ bảy, ḍng thứ hai, xem từ ḍng
thứ hai.
“Bổn
kinh dĩ thượng tam đại sĩ vi Bồ Tát chúng
trung thượng thủ, cái nhân tam đại sĩ
Tịnh Độ duyên thâm, chánh hảo ảnh hưởng
hải hội đại chúng đồng quy Tịnh
Độ” (Trong kinh này, ba vị đại sĩ trên
đây là thượng thủ trong hàng Bồ Tát, do v́ ba
vị đại sĩ có duyên sâu đậm với
Tịnh Độ, rất phù hợp để tạo
ảnh hưởng khiến đại chúng cùng quay về
Tịnh Độ). Mấy câu này vô cùng
hay, khiến tôi cảm xúc rất sâu, v́ quả thật ba
vị đại Bồ Tát ấy đă hướng
dẫn tôi quay về Tịnh Độ, pháp môn này
quả thật là pháp khó tin. Đặc biệt là nói [pháp
môn này] với những người hiện đang
được gọi là “thành phần trí thức” càng đặc
biệt khó khăn, v́ sao? Sở Tri Chướng quá
nặng. Nếu lại thêm Phiền Năo Chướng,
chuyện này sẽ rất phiền phức. Phiền Năo
Chướng nhẹ nhàng, Sở Tri Chướng nặng
nề, cũng rất khó trở về Tịnh Độ.
Chúng ta xem tiếp trang sau: “Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm trung Phổ Hiền
Bồ Tát ư Thệ Đa lâm trung, phát thập đại
nguyện vương” (trong phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát ở trong
rừng Thệ Đa phát ra mười đại
nguyện vương). Thệ Đa Lâm tức là Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc Viên[1],
chúng ta thấy Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười
đại nguyện vương dẫn về Cực
Lạc. Quư vị phải nhớ: Mười nguyện
ấy giống như một ṭa cao ốc mười
tầng, lễ kính là tầng thứ nhất, xưng tán là
tầng thứ hai, cúng dường là tầng thứ ba, sám
trừ nghiệp chướng là tầng thứ tư, càng
về sau càng phát triển cao hơn, tầng sau nhất
định bao gồm tầng trước, nhưng
tầng trước chẳng bao gồm tầng sau.
Tầng thứ nhất không bao hàm tầng thứ hai, nó có
thể độc lập; tầng thứ hai nhất
định có tầng thứ nhất, không có tầng
thứ nhất sẽ chẳng thể xây dựng
được. Từ chỗ này, chúng ta biết: Nếu không
có lễ kính, tâm cung kính chẳng thể sanh khởi,
thứ ǵ cũng chẳng có. Quư vị không có tầng
thứ nhất, toàn bộ đều chẳng có! Ngàn
vạn phần chớ nên sơ sót. [Nếu nghĩ] cung kính
qua loa một chút là được
rồi, không được đâu nhé! Qua quít không
được! Hễ qua quít là thôi rồi! V́ vậy, quư
vị thấy trong pháp thế gian, người Trung
Quốc từ xưa tới nay [tự hào Trung Hoa là] “lễ nghĩa chi bang”
(đất nước lễ nghĩa). Chúng ta mở sách
Lễ Kư ra xem, câu đầu tiên là “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (Khúc Lễ[2]
nói: “Không ǵ chẳng kính”), quư vị thấy, [cổ nhân]
đặt lễ kính vào hàng đầu, bèn biết pháp môn
này trọng yếu ngần ấy!
Giữa những người
quá thân thuộc với nhau, suồng să một tí, cần ǵ
phải bày vẽ màu mè như thế? Trọn chẳng
biết đấy không phải là bày vẽ màu mè, mà [lễ
kính] phát xuất từ trong nội tâm, tánh đức
tự nhiên lưu lộ, lại c̣n phải vĩnh viễn
chẳng suy th́ pháp thế gian và pháp xuất thế gian
mới có thể kiến lập. Lễ kính hơi suy
một chút, chắc chắn sau đó sẽ nẩy sanh
vấn đề. Người sáng mắt hiểu rơ:
Lễ số bị suy kém một chút, đó là tín hiệu
cho thấy [đoàn thể] bị phân tán, sắp phải
chia tay, đă có chuyện thay đổi! V́ thế, chúng ta
phải hiểu rơ: Chẳng thể điên đảo
thứ tự! Cùng một đạo lư, Bồ Tát tu sáu Ba La
Mật, thứ nhất là bố thí, thứ hai là tŕ
giới, thứ ba là nhẫn nhục, thứ tư là tinh
tấn; nếu chẳng có bố thí, toàn bộ những
điều sau đó cũng chẳng có! Kẻ không chịu
bố thí làm sao tŕ giới được? Chẳng thể
nào! Không thể tŕ giới, làm sao kẻ ấy tu nhẫn
nhục cho được? Trong Phật pháp, đức
hạnh có rất nhiều thứ, nhưng chắc chắn
không thể đảo lộn thứ tự các đức
hạnh trong tu hành. Hễ thứ tự bị xáo trộn
bèn rối loạn, đến cuối cùng chẳng có
chuyện nào thành tựu! Đối với lễ kính,
Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật”, từ cơ sở này
mà tu thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
đấy mới là công đức xứng tánh viên măn, làm
sao có thể coi thường cho được? Những ǵ
do chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ đă
kiến lập, nhất định có đạo lư to
lớn trong ấy, chúng ta phải tin sâu chẳng nghi,
phải nghiêm túc học tập, tuân thủ các lời
răn dạy mới ḥng thành tựu. “Phổ giai hồi
hướng” là tầng lầu thứ mười ở
tận trên cùng, là chót đỉnh của tháp báu, “phổ
giai hồi hướng” nghĩa là ǵ? Chính là nguyện
thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, cơ sở của phổ độ là
lễ kính.
Sau khi đă phát mười
đại nguyện vương, Phổ Hiền Bồ Tát
nói tiếp, những điều ấy đều là
lời phát nguyện của Ngài, “thị
nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na”
(người ấy lúc sắp lâm chung, trong sát-na cuối
cùng), tức là trong hơi thở cuối cùng, “nhất thiết chư căn
tất giai tán hoại” (hết thảy các căn
thảy đều hư hoại), cái thân vật chất
bị tan nát. “Nhất thiết
quyến thuộc tất giai xả ly” (hết thảy
quyến thuộc thảy đều ĺa bỏ), khi ấy
quư vị không buông xuống cũng chẳng
được, chẳng c̣n là người nhà quyến
thuộc của quư vị nữa, duyên trong đời này
đă hết, đă chấm dứt rồi. “Nhất thiết oai thế tất giai thoái thất”
(hết thảy quyền uy, thế lực thảy
đều lui mất), oai đức, quyền lực
của quư vị đến lúc ấy đă chấm dứt
rồi. “Phụ tướng
đại thần”, nếu quư vị mang thân phận
quốc vương th́ [từ ngữ “phụ tướng
đại thần”] nói đến Tể Tướng,
bầy tôi của quư vị. “Cung
thành nội ngoại” (cung thành trong ngoài), đấy là
của cải và cung điện của quư vị. “Tượng mă xa thặng” (xe
voi, xe ngựa), đấy là công cụ giao thông, đều
rực rỡ, xa hoa nhất, thù thắng nhất. “Trân bảo phục tạng”
(kho tàng quư báu), những món quư báu, đồ cổ quư
vị đă thâu thập.
“Như thị nhất thiết vô phục tương tùy”
(hết thảy những thứ như vậy chẳng c̣n
theo ta nữa), chẳng có thứ ǵ là của quư vị, khi
ấy quư vị liền biết, nguyên lai, ngay cả cái thân
của chính ḿnh cũng chẳng phải là của chính ḿnh!
Có thân thể này, quư vị có hết
thảy những thứ đó, thân thể chẳng c̣n, toàn
bộ hết thảy những thứ kèm theo đều
chẳng c̣n nữa! Những điều ấy nói với chúng ta một chân tướng sự
thật, mỗi cá nhân đều chẳng thể tránh
khỏi, cái thân xác thịt này đă có sanh nhất
định phải chết, đó là hiện tượng
tự nhiên. Một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông luân chuyển, luôn đổi dời chẳng
ngừng, không thể ngưng lại được,
biến hóa trong từng sát-na. Do vậy, đức Phật
dạy chúng ta, phàm thứ ǵ không mang theo được hăy
buông xuống, chớ nên ghim trong ḷng. Thứ ǵ thật
sự mang theo được hăy nên giữ nơi tâm,
niệm niệm chẳng xả, đó là đúng!
Tôi nhớ cư sĩ Lưu
Tố Vân có báo cáo, quư vị có thể xem đĩa CD
của bà ta, trong ấy bà ta có kể một câu chuyện
thật, chẳng giả, một bạn gái thân thiết
than văn chồng cô ta lăng nhăng bên ngoài. Bà ta bảo người
bạn gái ấy: “Đó là chồng cô dan díu bên ngoài, cô có
biết hai chữ trượng phu giải thích như
thế nào hay không? Trượng là xa đến một
trượng, trong ṿng một trượng là chồng cô,
ngoài một trượng chẳng phải nữa. Cô
bận tâm làm ǵ?” Đó là khuyên người khác buông
xuống, chẳng nên tự t́m phiền năo. Cùng một
đạo lư, chúng ta hăy mở rộng ra để quan sát,
thân thể này, một hơi thở chưa đoạn th́ c̣n
sống, là của chính ḿnh; hễ một hơi thở chẳng
hít vào được nữa, chẳng phải là của ta.
Quần áo quư vị mặc trên người là của chính
quư vị, bỏ chúng vào trong tủ áo bèn chẳng phải
là của quư vị. Căn nhà quư vị đang ở, hôm nay
quư vị ở trong căn nhà ấy th́ nó là của quư
vị, quư vị rời khỏi nhà, nó chẳng phải là
của quư vị nữa. Trong túi quư vị chứa bao nhiêu
tiền th́ là của quư vị, tiền trong ngân hàng
chẳng phải là của chính ḿnh.
Nếu chúng ta có thể quán như thế, tâm thanh tịnh
sẽ rất nhanh chóng hiện tiền, đây là nói lời
thật với quư vị, chẳng nói giả dối. Buông
xuống, bảo quư vị hăy thời thời khắc khắc
quán tưởng, tự nhiên quư vị có thể buông
xuống. Sau khi buông những thứ tạp nhạp
xuống, Phật hiệu mới dấy lên
được, đó là thật, v́ sao? Mang theo
được! Khi ta mạng chung sẽ sang thế
giới Cực Lạc. Trong sát-na cuối cùng, nếu quên
mất Phật hiệu, vẫn mê luyến những thứ
ấy, quư vị lại luân hồi trong lục đạo,
chẳng phải là bỏ lỡ cơ hội văng sanh Tây
Phương ư? Thật đáng tiếc! Tôi cũng
gặp chuyện giống như người bạn thân
tố khổ với Lưu cư sĩ, tôi cũng từng
gặp phải chuyện đó. Một vị nữ cư
sĩ kể lể chồng bà ta dan díu bên ngoài, hỏi tôi
nên làm sao? Tôi nói: “Điều ấy rất hợp
để giúp cho bà niệm Phật, bà đừng bận
ḷng, cứ để chồng làm theo ư muốn sẽ hay
hơn. Không chỉ chẳng oán hận, mà c̣n cảm tạ
người t́nh của chồng. Nếu không, bà phải chăm sóc chồng, công phu niệm Phật
chẳng đắc lực! Có một người tốt
như thế đến giúp đỡ bà, đó là
chuyện tốt, Bồ Tát đấy!” Chuyện thế
gian chẳng có ǵ tuyệt đối phải, trái, đúng,
sai, chẳng có, đều là trong một niệm của
chính ḿnh. Một niệm đă giác ngộ, ai nấy
đều là người tốt, chuyện ǵ cũng là
chuyện tốt, đều do trong một niệm, tùy
thuộc quư vị chuyển ư niệm theo cách nào! V́ vậy,
niệm nhiều những đoạn kinh văn như
thế này sẽ có lợi.
Tiếp theo đó là “duy thử nguyện vương
bất tương xả ly” (chỉ có nguyện
vương này chẳng bỏ ĺa), chẳng phải là
bảo quư vị niệm mười đại nguyện
vương, mà là bảo quư vị hăy hành. Lễ kính chư
Phật là quan hệ luân lư rốt ráo viên măn trong Phật
môn, quư vị thấy pháp thế gian được thực
hiện từ đâu? Từ “phụ
tử hữu thân”, tức là thực hiện bằng
t́nh thân ái. Trong Đại Thừa Phật pháp, Hoa Nghiêm là
Nhất Thừa Phật pháp được thực
hiện từ đâu? Thực hiện từ “lễ kính chư Phật”. Xét
theo ư vị, ư vị thế gian và pháp vị là một
vị, chẳng hai, chớ nên không biết điều này;
nhưng phạm vi của lễ kính chư Phật to
lớn, lớn đến mức độ nào? Cổ nhân
Trung Quốc nói: “Đại nhi
vô ngoại, tiểu nhi vô nội” (không ǵ lớn ở
ngoài, không ǵ nhỏ nhoi chẳng ở trong), toàn bộ
đều bao gồm trong ấy. Chư Phật là ǵ?
Chư Phật là tự tánh, chúng ta gọi người minh
tâm kiến tánh là Phật. Quá khứ Phật là Phật
đă thành, hiện tại Phật cũng đă minh tâm
kiến tánh, vị lai Phật là ai? Vị lai Phật chính
là chúng ta, là hết thảy hữu t́nh chúng sanh, hoàn toàn là
vị lai Phật, muỗi, trùng, kiến là vị lai
Phật, các loài trùng ngọ ngoạy, bay, ḅ là vị lai
Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói càng khéo: “T́nh
và vô t́nh đều cùng viên thành Chủng Trí”, ư nghĩa
này bao hàm điều ǵ? Hữu t́nh chúng sanh là vị lai
Phật, vô t́nh chúng sanh cũng là vị lai Phật. Vô t́nh là
ǵ? Hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại địa, các
hiện tượng vũ trụ toàn bộ đều là vị
lai Phật, đều do tự tánh biến hiện, ĺa
khỏi tự tánh sẽ chẳng có một pháp nào
để được. Nhà Phật thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp
chẳng có tâm”, tâm tức là Phật, Phật tức là
tâm. Những năm qua, chúng tôi đề xướng Tam
Thời Hệ Niệm là trợ tu; trong nghi thức ấy,
thiền sư Trung Phong đă bảo: “Tâm ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính
là tâm ta. Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh
Độ chính là phương này”, loại nhận
thức, ngôn hạnh như thế được gọi
là “lễ kính chư Phật”.
Quư vị thấy Phật pháp
giảng luân lư, đúng là giảng đến rốt ráo viên
măn; đối với một sợi lông trong chánh báo, y báo
trên đầu một sợi lông của chúng ta
được gọi là một hạt vi trần. Các nhà
khoa học hiện thời phân tích, biết nguyên tử có
thể phân tích [nhỏ hơn], điện tử vẫn có
thể phân tích, phân tích đến hạt cơ bản, phân
tích đến khoa khắc (quartz), vẫn c̣n có thể phân
tích [nhỏ hơn nữa], hiện thời đă phân tích
đến tiểu quang tử (photon); các nhà khoa học
đặt cho nó cái tên là lượng tử (quantum), nói chung
là chẳng c̣n cách nào phân tích nhỏ hơn nữa! Đó là
vật chất nhỏ nhất trong vũ trụ; trong
Phật pháp [vật chất nhỏ nhất]
được gọi là “cực
vi chi vi” đă bị họ phát hiện. Các nhà khoa
học nói trên thế giới không có vật chất, họ
nói rơ vật chất chẳng tồn tại, vật
chất là ǵ? Vật chất là hiện tượng
được phát sanh bởi ư niệm tích lũy, hiện
tượng ấy chính là tiểu quang tử, nó là từ
trong Không sanh ra Có. Hơn nữa, tốc độ vô cùng
nhanh chóng, vừa thấy nó sanh, nó đă diệt, gần
như là ǵ? Sanh diệt đồng thời, tốc
độ nhanh ngần ấy! V́ thế, hiện
tượng vật chất là một thứ huyễn
tướng tích lũy liên tục phát sanh. Hơn nữa,
họ c̣n phát hiện những vật chất vô cùng vi
tế ấy cũng có tác dụng tinh thần, [tác dụng]
tinh thần là ǵ vậy? Trong tự tánh, chúng
được gọi là “kiến, văn, giác, tri”
(thấy, nghe, hay, biết). Khi mê, nơi hiện
tượng vật chất, chúng (kiến, văn, giác, tri) được
gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đấy
chính là A Lại Da, [nói chính xác hơn, đó] là ba tế
tướng của A Lại Da. Nói theo Lư, quả thật có
thứ tự trước sau, nhưng trên mặt Sự,
chẳng nh́n ra thứ tự trước sau, nó quá nhanh
chóng, quá lẹ làng! Từ ba ngàn năm trước, trong
kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói: “Một niệm bất giác bèn có vô minh”. Vô minh là ba
tế tướng, từ ba tế tướng sanh ra sáu
thô tướng. Tướng thứ nhất trong sáu thô
tướng là Trí Tướng, người hiện
thời gọi Trí là tri thức (kiến thức), thưa
quư vị, Trí ấy chẳng phải là trí huệ, mà là tri
thức. Loại thứ hai là Tương Tục
Tướng, thứ ba là Chấp Thủ Tướng;
thứ tư là Phân Biệt; thứ năm là Nghiệp
Tướng, tạo nghiệp, thứ sáu là Nghiệp
Hệ Khổ Tướng, đó là quả báo. Quả báo
luân hồi trong lục đạo, ba tế, sáu thô, có
thể nói là sáu thô bao gồm y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới. Cũng như khi Huệ Năng
đại sư khai ngộ đă báo cáo năm câu, câu
cuối cùng là “nào ngờ
tự tánh, có thể sanh vạn pháp”, ba tế, sáu thô sanh
ra vạn pháp, sáu thô tướng chính là vạn pháp. Nay chúng
ta mê nơi sáu thô tướng, chẳng thể giác ngộ,
chẳng thể quay đầu, khi nào quay đầu sẽ
giác ngộ, sẽ tu hành chứng quả. Trong kinh Hoa Nghiêm,
Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta quay đầu, dùng
phương pháp ǵ? Chỉ có nguyện vương này
chẳng ĺa bỏ. Quư vị tu hành mười đại
nguyện vương, thật thà niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, bèn thành tựu trong một
đời này.
“Ư
nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ
tiền” (trong hết thảy các thời, nó dẫn
đường trước mặt), nguyện vương
ấy d́u dắt quư vị. “Nhất
sát-na trung tức đắc văng sanh Cực Lạc thế
giới” (trong một sát-na liền được văng
sanh thế giới Cực Lạc), mười đại
nguyện vương này là mười nguyện phải
phát, chẳng phải phát bằng miệng, chỉ phát
nguyện đằng miệng, chẳng khởi tác
dụng, phải từ trong tâm phát ra, phải thực
hiện lễ kính. Lễ là bề ngoài, Kính là trong tâm,
biểu hiện ra ngoài bằng chân tâm thương yêu, cung
kính. Nay chúng ta trông thấy người khác, ắt phải
cúi gập người chín mươi độ để chào,
đối với bất cứ ai đều biểu
thị sự lễ kính. Đối với muỗi,
kiến, có cần phải cúi gập người chín
mươi độ để chào hay chăng? Quư vị
cũng cúi gập người chín mươi độ
để chào, người ta sẽ nói quư vị là kẻ
ngốc! Thấy hoa, cỏ, cây cối cũng cúi gập
người chín mươi độ để chào ư?
Chẳng phải vậy! Chân tâm yêu thương, hăy chắp
tay niệm Phật hồi hướng, thuyết pháp cho nó.
Cái bàn, băng ghế dài cũng là một trong các vị
Phật, ta có nên hành lễ với cái bàn hay chăng?
Chẳng phải, lễ kính bàn ghế là lau chùi sạch
sẽ, sắp xếp ngay ngắn, đó là lễ kính! V́
vậy, lễ kính do người, do thời, do nơi
chốn, sống động, chứ không chết cứng,
chẳng phải là khô khan, mà là sống động, linh
hoạt. Trong tâm thật sự thành kính, sẽ chẳng có
ǵ không đúng pháp, thứ ǵ cũng đều đúng pháp,
chúng ta thật sự có thể cảm động
người khác, có thể giúp cho người khác “quay
đầu là bờ”. V́ thế, tự hành thật sự là
hóa tha, thật sự hóa tha nhất định phải
tự hành. Tự hành và hóa tha là một chuyện, chẳng
phải hai chuyện.
Văng sanh thế giới Cực
Lạc, “đáo dĩ, tức
kiến đáo A Di Đà Phật” (đă đến [cơi
Cực Lạc] liền thấy A Di Đà Phật). V́ sao?
Đó là pháp Nhất Thừa, dùng mười đại
nguyện vương tu pháp môn Niệm Phật, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng
phải là trong cơi Đồng Cư, cũng chẳng
phải trong cơi Hữu Dư, mà là trực tiếp sanh vào
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Quư vị không tin th́ hăy thử xem,
quư vị có thể đối với đá, đối
với bùn cát cung kính chân thành dường ấy, quư vị
sẽ cung kính người khác chẳng khác ǵ cung kính A Di
Đà Phật. Tâm chân thành như vậy sẽ tự nhiên
tương ứng với cơi Thật Báo Trang Nghiêm của A
Di Đà Phật, v́ sao? Chư Phật Như Lai đối
với vạn sự, vạn pháp, vạn vật đều
cung kính như thế, quư vị học theo chư Phật
Như Lai không hai, không khác, nên phẩm vị của quư
vị trong bốn cơi, ba bậc, chín phẩm nơi thế
giới Tây Phương sẽ cao. Nho gia nói đến quan
hệ nhân luân cao nhất là “phàm
thị nhân, giai tu ái” (hễ là người đều
phải yêu), chẳng nói đến động vật. Nếu
động vật cũng nói đến th́ là “ái ốc cập điểu”
(yêu nhà, yêu lây cả chim), đó là nói đến động
vật; nhưng chẳng nói đến cây cối, hoa,
cỏ, chẳng nói đến núi, sông, đại
địa, chẳng nói đến hiện tượng tự
nhiên. Phật pháp thảy đều nói tới, toàn bộ
được bao gồm trong ấy; v́ thế, luân lư
rốt ráo viên măn ở trong kinh Đại Thừa.
Người ấy đến nơi đó thấy A Di
Đà Phật, thấy Pháp Thân và Báo Thân của A Di Đà
Phật Pháp Thân, chẳng phải là Ứng Hóa Thân.
“Hựu
kệ vân” (lại nói kệ rằng), tiếp theo đó
là tám câu kệ, đấy là Phổ Hiền Bồ Tát phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ [bài kệ này
được chép] trong quyển bốn mươi của
bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, chúng ta hăy đọc mấy
câu kệ đó. “Nguyện ngă”
(nguyện tôi), “ngă” là
Phổ Hiền Bồ Tát tự xưng, “lâm dục mạng chung thời”, tức là khi thọ mạng chấm dứt, “tận trừ nhất thiết
chư chướng ngại” (trừ sạch hết thảy các
chướng ngại), khi mất chẳng có chướng
ngại, v́ sao? Thảy đều buông xuống.
Hễ có một chuyện chẳng buông xuống
được sẽ trở thành chướng ngại,
chuyện dẫu nhỏ bé đến mấy cũng
rất phiền phức, chướng ngại quư vị
chẳng thể văng sanh, chướng ngại khiến quư
vị tiếp tục luân hồi trong lục đạo,
quư vị nói xem chuyện này có phiền phức hay không? “Diện kiến bỉ Phật A
Di Đà, tức đắc văng sanh An Lạc sát” (gặp
mặt đức Phật A Di Đà, liền
được văng sanh cơi An Lạc), chẳng có
chướng ngại nên quư vị mới có thể thấy
Phật, sanh Tịnh Độ. “Ngă
kư văng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành tựu
thử đại nguyện” (tôi đă văng sanh cơi ấy
rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện
này), mười đại nguyện vương phải
được thực hiện viên măn rốt ráo khi nào?
Trong thế giới Cực Lạc. V́ vậy, quư vị
thật sự thực hiện viên măn rốt ráo
mười đại nguyện vương, thế
giới Cực Lạc sẽ hiện tiền, v́ sao?
Thế giới Cực Lạc do ư niệm của quư vị
biến hiện. Đúng là “phương
này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là
phương này”, ư niệm mười đại
nguyện vương biến hiện thành cơi Thật Báo
Trang Nghiêm của A Di Đà Phật. “Nhất thiết viên măn tận vô dư, lợi
lạc nhất thiết chúng sanh giới” (hết
thảy viên măn chẳng c̣n sót, lợi lạc hết
thảy chúng sanh giới), chính ḿnh đă thành tựu,
lại thành tựu hết thảy chúng sanh giới. Lợi
ích như thế nào? Giáo hóa. Phổ Hiền Bồ Tát
cũng là trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ, khởi cảm ứng đạo giao cùng hết
thảy chúng sanh hữu duyên. Chúng sanh có cảm, Ngài bèn
hiện thân, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát “nên dùng thân ǵ để
đắc độ bèn hiện thân ấy”. Tám câu
ấy là lời phát nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát.
Kế đó, chúng ta lại xem
Văn Thù Bồ Tát, [xem xong lời] phát nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát, lại xem tới ngài Văn Thù,
lời nguyện của ngài Văn Thù hầu như hoàn toàn
giống với Phổ Hiền Bồ Tát: “Nguyện ngă mạng chung thời, diệt trừ
chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, văng
sanh An Lạc sát” (nguyện tôi lúc mạng chung, diệt
trừ các chướng ngại, gặp gỡ A Di Đà,
văng sanh cơi An Lạc), cơi An Lạc chính là thế giới
Cực Lạc. “Sanh bỉ
Phật quốc dĩ, thành măn chư đại nguyện,
A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ngă kư” (Sanh
về cơi ấy rồi, thành măn các đại nguyện, A
Di Đà Như Lai, bèn hiện tiền thọ kư), Như Lai
thọ kư Bồ Tát thành Phật viên măn. “Như thị lưỡng đại sĩ, phát thù
thắng đại nguyện, cầu sanh Cực Lạc,
khả khuyến nhất thiết Bồ Tát, giai
ngưỡng tín Văn Thù chi đại trí, nhập Phổ
Hiền chi đại hạnh, phổ đạo chúng sanh,
đồng quy Cực Lạc” (Hai vị đại
sĩ phát đại nguyện thù thắng, cầu sanh
Cực Lạc như vậy, có thể khuyên hết
thảy các vị Bồ Tát đều ngưỡng mộ,
tin tưởng đại trí của Văn Thù, nhập
đại hạnh của Phổ Hiền, dẫn dắt trọn
khắp các chúng sanh đều về Cực Lạc).
Xưa kia, khoảng chừng ba mươi năm
trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, cũng dùng một
thời gian rất dài [mà chỉ] giảng được
một nửa. Khi ấy, mỗi tuần tôi giảng ba
ngày, hai ngày giảng Bát Thập Hoa Nghiêm, một ngày
giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, mỗi tuần giảng
sáu giờ, mỗi lần hai giờ. Giảng
được một nửa, bỗng có ngày tâm t́nh sôi
nổi, đột nhiên nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền
tu pháp môn ǵ? Trong hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài là đệ
tử đắc ư của Văn Thù Bồ Tát, cũng có
thể nói Ngài là truyền nhân của Văn Thù Bồ Tát,
Ngài tu pháp môn ǵ? Điều này thuộc phần sau, vẫn
chưa giảng đến, tôi vừa mới thưa cùng
quư vị, đối với đoạn văn này, vừa
mới đọc đến đoạn văn này trong
quyển bốn mươi của bộ Tứ Thập Hoa
Nghiêm. Tôi lật kinh ra, xem đến phần sau, thấy
đoạn này, hoảng nhiên đại ngộ, lúc đó
mới thật sự tin tưởng Tịnh Độ,
nhất tâm quy mạng pháp môn Tịnh Độ, cũng
nguyện sanh về cơi Cực Lạc giống như
Bồ Tát, đích thân phụng sự A Di Đà Phật.
Trước đó, thầy Lư đă khuyên tôi rất
nhiều lần, nhưng tôi cũng chẳng có cách nào
tiếp nhận. Tôi học Phật là do theo tiên sinh
Phương Đông Mỹ học Triết Học Nhập
Môn, thầy Phương đặc biệt giới
thiệu kinh Hoa Nghiêm cho tôi, bảo tôi
“bộ sách ấy” vốn là khái luận của Đại
Thừa Phật học, cụ dùng danh xưng ấy
để giới thiệu. Cụ nói “bộ sách” ấy
viết hay lắm, trên cả thế giới không có sách
Triết Học nào hay hơn được! Trong sách
ấy có lư luận viên măn, có phương pháp tinh tế,
phía sau lại c̣n kèm theo năm ba mươi lần biểu
diễn, biểu diễn ǵ vậy? Thực hiện lư
luận và phương pháp ấy như thế nào trong
cuộc sống, trong công việc, trong xử sự, đăi
người, tiếp vật; v́ thế, thầy
Phương mới nói: “Đây
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”. Thầy Phương không khuyên tôi tu
Tịnh Độ, thầy dạy tôi hăy nhập môn từ
Pháp Tướng Tông, đối với những thành
phần tri thức thông thường th́ phải giới
thiệu như vậy. Phần tử tri thức ham
học, nghe nhiều, Pháp Tướng Duy Thức hết
sức phù hợp khẩu vị của họ. Do vậy,
họ bài xích Tịnh Độ, cho là ǵ? “Giáo pháp của
mấy bà già! Thích Ca Mâu Ni Phật đại từ
đại bi, thấy những kẻ ngu si ấy chẳng
có cách nào học tập, bèn khuyên họ niệm A Di Đà
Phật”. Tâm thái nh́n nhận Tịnh Độ như
vậy là nh́n sai bét rồi!
Chương Gia đại
sư là Thượng Sư bên Mật Tông, Ngài khuyên tôi “Mật Giáo nhất định
phải tu học từ Hiển Giáo”, dạy tôi hăy
nương theo kinh luận Đại Thừa, Ngài cũng
chẳng khuyên tôi tu Tịnh Độ. Sau này, gặp
thầy Lư, thầy Lư học với Ấn Quang đại
sư là bậc đại đức trong Tịnh Tông,
biết sự thù thắng của Tịnh Độ,
nhưng cụ khuyên tôi rất nhiều lần, tôi chẳng
bài xích, chẳng khinh dễ Tịnh Độ. Cụ
đưa Ấn Quang Văn Sao cho tôi xem, tôi đọc xong
một lượt, đối với Tịnh Độ có
chút ấn tượng, chẳng hề hủy báng, cũng
tán thán, nhưng chính ḿnh chẳng chịu học, mà học
kinh điển Đại Thừa. Thầy giảng kinh Hoa
Nghiêm tại Đài Trung, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm tại
Đài Bắc, giảng đến một nửa
đột nhiên nghĩ đến chuyện này, xem
đoạn văn này mới quay đầu là bờ,
thật sự phát tâm. V́ thế, tôi từ học Phật
mà trở về Tịnh Độ, nói chung, hai mươi
năm trước chẳng thật sự dụng tâm
đọc kinh Tịnh Độ, hai mươi năm sau
mới bắt đầu nghiêm túc đọc tụng kinh
luận Tịnh Độ. Tôi tin tưởng, Phật,
Bồ Tát đă bảo là pháp khó tin, đối với tôi
quả thật khó tin. Nếu không có Hoa Nghiêm, Pháp Hoa,
Lăng Nghiêm, tôi chẳng thể trở về Tịnh
Độ, những bộ đại kinh ấy đă
dẫn dắt tôi về Tịnh Độ. V́ thế, tôi có
ấn tượng rất sâu đối với mấy câu
này. Hết thảy Bồ Tát đều ngưỡng
mộ, tin tưởng Văn Thù đại trí, Phổ
Hiền đại hạnh. “Ngưỡng”
(仰)
là kính ngưỡng, chẳng c̣n bàn căi chi nữa, hai vị
Bồ Tát này là đại trí, đại hạnh. “Phổ đạo chúng sanh
đồng quy Cực Lạc. Thị cố thử kinh,
liệt vi thượng thủ. Thứ lệ Di Lặc
giả, Đại Bảo Tích Kinh, Phát Thắng Chí Nhạo
hội, Di Lặc vấn Phật, nhược hữu chúng
sanh phát thập chủng tâm, tùy nhất nhất tâm, chuyên
niệm hướng ư A Di Đà Phật, thị nhân
mạng chung đương đắc văng sanh bỉ
Phật thế giới” (hướng dẫn trọn
khắp chúng sanh cùng về Cực Lạc. V́ thế, kinh này
xếp các Ngài vào hàng thượng thủ. Kế đó, nêu
tên ngài Di Lặc. Trong pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù
Thắng Chí Nhạo của kinh Đại Bảo Tích, ngài
Di Lặc hỏi Phật: “Nếu có chúng sanh phát
mười loại tâm, do mỗi tâm chuyên niệm,
hướng về A Di Đà Phật, người ấy
mạng chung sẽ sanh về thế giới của
đức Phật ấy”). Đây là trong kinh Bảo Tích,
trong hội ấy, Di Lặc Bồ Tát có nói mấy câu
như vậy. Ngài nói nếu có chúng sanh phát mười
loại tâm, chúng tôi trích lục mười loại tâm
ấy từ Tam Tạng Pháp Số, đều sao lục
từ kinh Bảo Tích, rất quan trọng.
Kinh dạy như thế này: “Di Lặc Bồ Tát bạch
Phật ngôn: Như Phật sở thuyết, A Di Đà
Phật Cực Lạc thế giới công đức
lợi ích” (Di Lặc Bồ Tát bạch Phật: “Như
đức Phật đă nói về công đức và lợi
ích trong thế giới Cực Lạc của A Di Đà
Phật”), những điều ấy do đức Thế
Tôn giảng cho Di Lặc Bồ Tát, “nhược hữu chúng sanh phát thập chủng tâm,
tùy nhất nhất tâm chuyên niệm bỉ Phật, thị
nhân mạng chung đương đắc văng sanh dă”
(nếu có chúng sanh phát mười loại tâm, dùng mỗi tâm
để chuyên niệm đức Phật ấy,
người đó mạng chung sẽ được văng
sanh). Chúng ta phải nghiêm túc học tập mười
loại tâm ấy, hai loại đầu tiên biểu
thị ḷng đại từ đại bi của Di Lặc
Bồ Tát.
Thứ nhất là “vô tổn hại tâm”,
người niệm Phật đều phải tu
mười loại tâm ấy. “Niệm
Phật chi nhân, ư chư chúng sanh, thường khởi
đại từ chi tâm, bất gia tổn hại, linh
đắc khoái lạc, thị danh vô tổn hại tâm”
(người niệm Phật thường khởi tâm
đại từ đối với các chúng sanh, chẳng
gây tổn hại, khiến cho họ được vui
sướng, nên gọi là tâm chẳng tổn hại).
Từ bi làm đầu, phát tâm ấy như thế nào?
Người b́nh thường chẳng phát được,
chỉ có Đại Thừa Bồ Tát, v́ sao? Đại
Thừa Bồ Tát mới thật sự biết chúng sanh
trong pháp giới vốn cùng một Thể. Sách Hoàn Nguyên Quán
của Hiền Thủ quốc sư đă giảng nguyên
khởi của vũ trụ, đây là một đại
vấn đề, là một vấn đề lớn trong
triết học và khoa học, măi cho đến hiện thời
cũng chẳng có cách nào giải quyết. Biết có
chuyện ấy, nhưng chuyện ấy rốt ráo là
như thế nào, chẳng ai có thể nói được.
Vũ trụ do đâu mà có? V́ sao có vũ trụ? Con
người do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Trọng yếu
nhất là ta, ta do đâu mà có? Chỉ trong Đại
Thừa Phật pháp là những vấn đề ấy
được giảng rơ ràng, ngay cả các nhà khoa học
Lượng Tử hiện thời cũng chẳng có cách
nào giảng rơ ràng như đức Phật. Thật sự
hiểu rơ ràng, minh bạch th́ khắp pháp giới hư
không giới và chính ḿnh vốn là một, một Thể,
một thân, thân ấy được gọi là Pháp Thân,
chẳng phải là thân nghiệp báo, mà là Pháp Thân. Thân
nghiệp báo là một phân tử, một tế bào, một
sợi lông trong Pháp Thân.
Pháp Thân không có sanh diệt,
đạo lư “chẳng sanh diệt” này nói rất sâu. Trong
kinh giáo Đại Thừa, đức Phật bảo chúng
ta “vốn chẳng sanh”. Nếu chẳng sanh, lấy đâu
ra diệt? Có hiện tượng hay không? Có, nhưng khó
hiểu. Có hiện tượng th́ có sanh diệt, cớ sao
có thể nói là “vốn chẳng sanh?” Trong khi giảng kinh,
đức Phật rất khéo dùng tỷ dụ, khiến
cho chúng ta từ tỷ dụ sẽ thấu hiểu.
Tỷ dụ được dùng nhiều nhất là nằm
mộng, v́ mỗi cá nhân đều có kinh nghiệm nằm
mộng, nên dùng mộng làm tỷ dụ mọi người
sẽ chẳng cảm thấy xa lạ, xưa, nay, trong,
ngoài nước mọi người đều nằm
mộng. V́ thế, trong kinh Kim Cang, đức Phật nói
bốn câu kệ: “Hết
thảy các pháp hữu vi”, hết thảy các pháp hữu
vi là Pháp Thân, “như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như
chớp, hăy nên quán như thế”. Như mộng,
huyễn, bọt, bóng là không có sanh diệt; vốn không sanh,
há có diệt! V́ sao? Giả, chẳng thật, khi nằm
mộng th́ có, sau khi tỉnh mộng bèn chẳng c̣n nữa,
rỗng tuếch! Khi mộng th́ chẳng sanh, khi tỉnh
cũng không diệt, căn bản là không có chuyện này.
Phật dùng điều này để tỷ dụ
điều ǵ? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới là mộng cảnh. Có thời gian dài hay ngắn hay
không? Thưa quư vị, không có, trong mộng có thời gian,
sau khi tỉnh lại bèn chẳng c̣n thời gian nữa.
Không chỉ chẳng có thời gian, mà không gian cũng
chẳng có, không gian là ǵ? Ngay trong giây phút này. Đối
với những lời kinh ấy và những ư nghĩa
ấy, chúng ta phải rất chú tâm quán chiếu, thấu
hiểu th́ mới có thể nhận thấy đức
Phật nói chẳng sai! Khắp pháp giới hư không
giới và chính ḿnh là một; ngoài chính ḿnh ra, thứ ǵ
cũng chẳng có! Giống như trong mộng, toàn bộ
cảnh giới trong mộng đều do tâm của chính
ḿnh biến hiện. Trong mộng có nhiều người, nhiều
sự, nhiều vật, toàn bộ đều do tự tâm
biến hiện. Thật sự đúng như đức
Phật đă nói: “Ngoài tâm
chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm. Ngoài tâm chẳng có
mộng, ngoài mộng chẳng có tâm”. Quư vị dần
dần thấu hiểu, thật sự thấu hiểu, tâm
từ bi sẽ phát xuất. V́ sao? Chẳng có ai không yêu
thương chính ḿnh! Đă biết toàn thể vạn
sự, vạn vật trong vũ trụ là chính ḿnh, tâm
đại bi mới có thể sanh khởi được.
Đó là chân tâm, chẳng phải là hư vọng, tâm yêu
thương chân thành.
Thật ra, trước khi
Phật pháp truyền đến Trung Quốc, tổ tiên
Trung Quốc cũng đă từng nói đến đạo
lư này, nhưng chẳng nói tỉ mỉ như trong kinh
Phật. Lăo Tử nói: “Thiên
địa dữ ngă đồng căn, vạn vật
dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta cùng
cội rễ, vạn vật và ta cùng một thể),
chẳng phải là ư nghĩa này ư? Lăo Tử và Thích Ca Mâu
Ni Phật chưa hề gặp mặt, cũng chẳng
trao đổi tin tức, đó gọi là “anh hùng có cách nh́n
đại lược giống nhau!” Thích Ca Mâu Ni Phật
trông thấy, Lăo Tử cũng nói đến. Nếu
chẳng thấy, làm sao Ngài có thể nói được?
Ắt phải có nhận biết giống như vậy, nhận
biết vũ trụ là một Thể, tâm từ bi chân thành
mới sanh ra được. Sau đấy th́ sao?
Đối với hết thảy chúng sanh chắc chắn
không có tâm tổn hại, quư vị yêu thương họ.
Quư vị không chỉ giết họ, mà ngay cả gây
tổn hại cho họ cũng chẳng thể làm
được, đó là tánh đức trong tự tánh
thấu lộ viên măn. Không chỉ chẳng gây tổn
hại, mà quư vị nhất định có tâm thành tựu
người khác, khiến họ được vui
sướng, thật sự có ḷng giúp đỡ kẻ khác,
khiến cho kẻ khác thành tựu. Nếu ta chẳng quen
biết kẻ đó, kẻ đó lại chẳng có liên
quan ǵ với ta, ta cần ǵ phải làm chuyện tốt
ấy, cần ǵ phải giúp đỡ kẻ chẳng thân
thiết, chẳng có quan hệ ǵ với ta? [Đó là tâm thái
của kẻ] chưa giác ngộ, là tâm phàm phu! Người
thật sự giác ngộ chẳng có tâm ư thức ấy!
Người ấy chỉ biết căn tánh [chúng sanh] là
lợi hay độn, đă chín muồi hay chưa. Nếu
căn tánh chín muồi, nhạy bén, bèn giúp đỡ, thành
tựu kẻ đó trước. Nếu kẻ đó thành
Phật, sẽ phổ độ chúng sanh. Đối
với người chí thân và bạn bè thân thiết của
ta, nếu căn cơ của họ chưa chín muồi, ta
có thể tạm thời bớt giúp họ một chút,
họ chưa chín muồi mà! Một nguyên tắc là thành
tựu điều tốt đẹp cho người khác,
chẳng thành tựu điều ác, nhất định
phải hiểu nguyên tắc này. Do vậy, không có tâm
tổn hại, đối với hết thảy chúng sanh,
đối với núi, sông, đại địa, cây
cối, hoa, cỏ, chẳng có tâm tổn hại.
Điều thứ hai, “vô bức năo tâm. Niệm Phật chi nhân, thân tâm an
tĩnh, ư chư chúng sanh, thường khởi
đại bi chi tâm, thâm gia mẫn thương, linh
đắc thoát khổ, thị danh vô bức năo tâm” (Tâm
vô bức năo: Người niệm Phật, thân tâm an
tĩnh, thường khởi tâm đại bi đối
với các chúng sanh, sanh ḷng thương xót sâu xa, khiến
cho họ được thoát khổ, điều đó
gọi là “vô bức năo tâm”). Bức (逼) là bức bách, nay chúng ta gọi là “áp
lực”. Năo (惱)
là khiến cho kẻ khác sanh phiền năo. [Vô tổn hại
tâm và vô bức năo tâm] đều thuộc về từ bi.
Ở đây, kinh nói rất hay, điều trước là
từ tâm, điều này là bi tâm. Bi là tâm thương xót.
Tâm thương xót dấy lên, ở đây, nói rất hay, “thân tâm an tĩnh”. Nếu thân
tâm chẳng thể an tĩnh, bi tâm chẳng thể sanh
khởi, [bi tâm là] tâm thương xót, tâm đồng t́nh, v́
sao? Thân tâm an tĩnh sanh trí huệ. Từ bi và trí huệ có
mối liên quan, thân tâm chẳng an sẽ sanh phiền năo,
trong phiền năo lấy đâu ra từ bi? Có lúc trong
phiền năo cũng có từ bi, đó là hai thứ
trước trong bốn loại từ bi như kinh Phật
đă dạy, phàm phu có hai thứ ấy. Loại thứ
nhất là Ái Duyên Từ Bi, nói chung là đối với thân
bằng hảo hữu của chính ḿnh, ta yêu mến họ,
họ có quan hệ với ta, ta bèn giúp đỡ, yêu
thương, chăm sóc họ. Nhưng nếu chẳng
phải là thân bằng hảo hữu, tâm ấy chẳng
thể sanh khởi. Đó là Ái Duyên Từ Bi. Người
đọc sách có đức hạnh, có học vấn, tâm
lượng mở rộng, đấy cũng là như
Đệ Tử Quy nói, người ấy đă
đạt tới mức “hễ
là người, đều phải yêu thương”,
đạt đến cảnh giới ấy, trong Phật
pháp gọi [cảnh giới ấy] là Chúng Sanh Duyên Từ
Bi, mở rộng ḷng yêu thương của chính ḿnh, có
thể từ bi đối với hết thảy chúng sanh,
điều này rất khó có. Tại Trung Quốc, chúng ta gọi
người như vậy là thánh hiền, đại thánh,
đại hiền, tâm từ bi của họ thấu
đến hết thảy chúng sanh là những người
chẳng có mảy may quan hệ với họ. Điều
thứ ba thuộc về Bồ Tát trong Phật môn, tức
là Pháp Duyên Từ Bi. Ngài chưa phải là Phật, đang
học Phật. Phật dạy vạn sự vạn
vật trong khắp pháp giới hư không giới và ta là
một Thể, Ngài học tập, Ngài cũng giống
như Phật mở rộng tâm từ bi của chính ḿnh
đến rộng khắp hết thảy chúng sanh trong pháp
giới. Ngài chưa đoạn khởi tâm động
niệm, chẳng c̣n phân biệt, chấp trước, nhưng
vẫn c̣n khởi tâm động niệm. Đến
cuối cùng là Vô Duyên Từ Bi, ḷng từ bi này là của
Phật. Ở đây nói tới Vô Duyên Từ Bi th́ Vô Duyên là
không có điều kiện. Hiện thời, có thể dùng
hai chữ “điều kiện” để giải thích
chữ Duyên, [vô duyên] là vô điều kiện. V́ sao vô
điều kiện? [Ta và chúng sanh có cùng] một Thể,
[đă là] một Thể, há có điều kiện? Do
vậy, Phật là vô duyên đại từ đại bi,
Bồ Tát là pháp duyên, thánh hiền là chúng sanh duyên, các phàm phu
chỉ có ái duyên. V́ thế, người đạt
đến địa vị thánh hiền có tâm từ bi,
ḷng yêu thương mở rộng, đúng là “phàm là người, đều
nên yêu thương”. Thấy người tuổi tác
chẳng khác cha mẹ ta cho lắm, bèn lễ kính
người ấy chẳng khác cha mẹ của chính ḿnh.
Thấy kẻ tuổi nhỏ bằng cỡ con cái ḿnh, bèn
chăm nom kẻ ấy hệt như con cái của chính
ḿnh. Đó là thánh hiền thế gian. Sự tu học trong
Phật pháp chẳng có ǵ khác, cứ từng bước
tiến cao hơn, quyết định chẳng có tâm thái
bức năo!
Thứ ba là hộ pháp, “nhạo thủ hộ tâm.
Niệm Phật chi nhân, ư Phật sở thuyết chánh
pháp, đương tu bất tích thân mạng, thủ
hộ, ái tích, thị danh nhạo bảo hộ tâm” (tâm
yêu thích ǵn giữ, bảo vệ. Người niệm
Phật đối với chánh pháp do đức Phật
đă nói, hăy nên chẳng tiếc thân mạng để
bảo vệ, yêu mến, đó là tâm yêu thích bảo
vệ). Đây chính là như chúng ta thường nói, chánh
pháp tồn tại lâu dài. Phải làm như thế nào
mới ḥng chánh pháp tồn tại lâu dài? Quư vị nhất
định phải tuân thủ pháp th́ mới có thể
hộ pháp. Không tuân thủ pháp, quư vị dùng điều ǵ
để hộ pháp? Do vậy, trong bốn chữ này,
đức Phật chẳng nói “nhạo
hộ pháp tâm” (tâm thích hộ pháp), mà nói “thủ hộ tâm”, chữ Thủ (守) là mấu
chốt, có thể làm được hay không? “Thủ” là thọ tŕ. Ngày nay
Phật pháp suy vi, chúng ta muốn tuân thủ Phật pháp,
chiếu theo Phật pháp để tu hành, tự nhiên có
hộ tŕ trong ấy; nhưng quư vị có tin tưởng
chánh pháp do đức Phật đă nói hay không? Có thể lư
giải hay không? Đấy là mấu chốt. Thật
sự lư giải th́ quư vị mới có tín tâm, chẳng
hiểu rơ th́ ḷng tin ấy chính là mê tín, mê tín sẽ bị
dao động rất dễ dàng. Do vậy, Phật pháp nói tới
chánh tín, chánh tín là ǵ? Quư vị hiểu rơ ràng, minh bạch
lời đức Phật dạy, đấy là chánh tín. Hiểu
rơ ràng, minh bạch rồi quư vị mới thật sự y
giáo phụng hành. Ta thật sự quy y, quy y là bái sư, bái
ai làm thầy? Bái A Di Đà Phật làm thầy, bái Thích Ca Mâu
Ni Phật làm thầy. Quy y chính là bái sư, quy y Tam Bảo,
chẳng nói quy y vị pháp sư nào! Trong giáo pháp Đại
Thừa đă nói rơ ràng, minh bạch. Nhất là trong Lục
Tổ Đàn Kinh, tổ sư đời thứ sáu của
Thiền Tông là Huệ Năng đại sư đă nói
đơn giản, minh bạch. Ngài truyền trao quy y cho người
khác, dạy người ta “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”,
Ngài chẳng nói “quy y Phật, Pháp, Tăng”. V́ sao? Chúng ta có
thể suy ra rằng: Trong thời Ngài, Phật pháp đă
truyền đến Trung Quốc khoảng chừng hơn
bảy trăm năm, thời gian lâu ngần ấy, cho nên
càng truyền càng bị sai ngoa. Người b́nh phàm nẩy
sanh hiểu lầm đối với Phật pháp, hễ nhắc
tới quy y Phật, bèn nghĩ đến tượng
Phật bằng đất nặn, gỗ khắc, quy y
Pháp, ngay lập tức nghĩ đến kinh điển;
quy y Tăng liền nghĩ đến người xuất
gia. Quư vị quy y như vậy là sai bét rồi, quy y
chẳng phải là ư nghĩa ấy!
Do vậy, Tổ chẳng dùng
Phật, Pháp, Tăng, mà dùng Giác, Chánh, Tịnh rồi
lại giải thích cho quư vị. Phật là Giác, Phật có
nghĩa là Giác, giác mà không mê là quy y Phật. Quư vị
thấy trong ấy há có mê tín? Chánh chứ không tà, chánh tri,
chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến, đó là
quy y Pháp. Sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy
trần, đó là quy y Tăng, mang ư nghĩa ấy. V́
thế, Phật là tự tánh giác, Pháp là tự tánh chánh,
Tăng là tự tánh tịnh, nói tới tự tánh Tam
Bảo, chẳng phải là bên ngoài, quư vị mới
thật sự quy y. Chư Phật Như Lai xuất
hiện trên thế gian để biểu diễn, thân hành,
ngôn giáo, đích thân biểu diễn giác, chánh, tịnh,
miệng giảng cho quư vị cũng là giác, chánh, tịnh,
hoàn toàn giúp chúng ta trở về tự tánh. Quy (皈) là quay
đầu, Y (依)
là nương cậy, quay đầu nương theo ǵ?
Nương theo trí huệ và đức tướng trong
tự tánh, chẳng phải là cậy vào bên ngoài, ngàn muôn
phần các đồng học phải ghi nhớ
điều này! Nếu quy y một vị pháp sư hay ḥa
thượng nào đó, hỏng bét rồi, vị ấy có
đại triệt đại ngộ hay không? Vị
ấy có minh tâm kiến tánh hay không? Nếu vị ấy
chưa đại triệt đại ngộ, chưa minh
tâm kiến tánh, vị ấy là phàm phu trong lục
đạo, ta quy y vị ấy chẳng phải là vẫn
tạo nghiệp lục đạo ư? Thầy tạo
nghiệp lục đạo, dẫn dắt quư vị
vẫn tạo nghiệp lục đạo, chẳng ra
khỏi được! V́ thế, đối với chánh
pháp do đức Phật đă nói, chẳng thể không
học tập, chớ nên không hiểu rơ ràng; sau khi hiểu
rơ bèn phải thực hiện, ta chẳng tiếc thân
mạng cũng phải thực hiện. Thân mạng là
tỷ dụ, [chẳng tiếc thân mạng] tức là
chẳng sợ khổ. Đức Phật dạy chúng ta
buông xuống, chúng ta buông xuống, thân mạng cũng
chẳng cần th́ c̣n có ǵ chẳng buông xuống
được? Phật dạy chúng ta tŕ giới, chúng ta
thật sự làm.
Tịnh Tông Học Hội thành
lập, khi ấy, tôi ở Mỹ, tôi khuyên các đồng
tu học tập năm khoa mục. Kinh Phật có nội
dung quá phong phú, học trọn hết th́ quá phức tạp,
cũng chẳng thể nhớ nổi!
Đơn giản là nhớ kỹ năm khoa mục,
chẳng cần dùng đến sách vở mà quư vị có thể
ghi nhớ kỹ càng. Đầu tiên là chúng ta phải
học Tam Phước. Con người chẳng thể
không có phước báo, trước tiên là tu tam
phước. Tam phước là “tánh, tu bất nhị”, chúng
có sẵn trong tự tánh, chúng ta chịu tu theo tam
phước trong tự tánh là đúng. Câu đầu tiên là “hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không
giết, tu thập thiện nghiệp”.
Đó là ǵ? Tu phước. Tu phước theo kiểu
ấy sẽ hoàn toàn tương ứng với tánh
đức trong tự tánh. Đức Phật coi trọng,
quư vị thấy nhà Phật thường nói “phước huệ song tu”,
đặt phước đằng trước,
đặt huệ đằng sau. Người thế gian chúng
ta cũng hy vọng có phước trước, rồi
mới cầu trí huệ, nên Phật làm cho chúng sanh măn
nguyện. Như vậy th́ phước báo của quư
vị do tu từ đâu mà thành? Từ hiếu thảo cha
mẹ, tôn trọng thầy, từ tâm chẳng giết, tu
mười thiện nghiệp, phước báo do
đấy mà có. Chúng ta chiếu theo đó để tu, phát
tâm cách nào cũng tu chẳng thành, tu mấy năm vẫn
chẳng có hiệu quả, thôi đi, chẳng cần
nữa! Vẫn là ta làm theo kiểu của ta, thoái chuyển
rồi, người như vậy quá nhiều! Do đó,
chúng ta hăy nên phản tỉnh sâu xa, v́ sao cổ nhân làm
được? Chẳng cần nói đến thời
rất xa, một trăm năm hay tám mươi năm
trước, nói chung, người thuộc tám mươi
năm trước quá nửa là có thể làm
được. Một trăm năm trước, tối
thiểu có từ tám mươi đến chín mươi
phần trăm có thể làm được! Người
hiện thời làm không được, v́ nguyên nhân ǵ? Tuổi
nhi đồng của chúng ta đă coi nhẹ, bỏ sót, không
vun bồi căn cơ giáo dục. Căn cơ ấy là ǵ?
Chính là ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, tức
là những điều chúng tôi đề xướng trong
mấy năm gần đây. Căn bản của Nho là
Đệ Tử Quy, dùng nó làm đại biểu, căn
bản của Đạo là Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên, căn bản của Phật là Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Tám mươi năm
trước, trẻ nhỏ ắt phải học ba
thứ ấy nên chúng có căn bản. Ai dạy chúng nó? Cha
mẹ dạy, cha mẹ thảy đều làm
được. Từ lúc sanh ra, trẻ nhỏ đă
thấy, nghe từ cha mẹ, tai nghe quen, mắt nh́n quen,
tự nhiên học được. Cổ nhân Trung Quốc
có câu: “Thượng
lương bất chánh, hạ lương oai” (kèo trên
chẳng ngay, kèo dưới lệch), “kèo trên” là ǵ? Kẻ
làm cha mẹ! Cha mẹ đă chánh, lẽ nào con cái bất
chánh? Cha mẹ bất chánh, làm sao con cái chánh cho
được? Vấn đề xuất hiện ở
chỗ này.
V́ vậy, chúng tôi đưa ra
ba căn bản giáo dục ấy, “hiếu thân, tôn sư” (hiếu
thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy) được
thực hiện bằng Đệ Tử Quy, “từ tâm
chẳng giết” được thực hiện bằng
Cảm Ứng Thiên, câu cuối cùng là tu Thập Thiện
Nghiệp. Do có rất nhiều người hỏi tôi:
“Thưa pháp sư Tịnh Không! V́ sao thầy đề
xướng Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên?
Những thứ ấy đều chẳng phải là
Phật giáo”. Họ không biết, từ giữa đời
Đường trở đi, Phật giáo Trung Quốc không học Tiểu Thừa.
Trong kinh điển, đức Phật đă dạy: “Phật tử không học
Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại Thừa, chẳng
phải là đệ tử Phật”, Phật không
thừa nhận. Cớ sao quư vị chẳng làm theo quy
củ của đức Phật? Các kinh luận Tiểu
Thừa được dịch sang tiếng Hán vô cùng đầy
đủ, tôi chẳng chú tâm nghiên cứu, nhưng
Chương Gia đại sư bảo tôi, đối
chiếu Tam Tạng của Nam Truyền Tiểu Thừa với
Tứ A Hàm [trong Hán Tạng, tạng Nam Truyền] chỉ
nhiều hơn [các kinh điển Tiểu Thừa trong Hán
Tạng] năm mươi mấy bộ. Gần ba ngàn
bộ kinh điển mà chỉ nhiều hơn năm
mươi mấy bộ, có thể thấy Tứ A Hàm đă
được phiên dịch khá hoàn bị. Phật giáo sau
khi được truyền đến Trung Quốc,
đúng là trước học Tiểu Thừa, sau học
Đại Thừa, đặt vững cơ sở nơi
Tiểu Thừa; v́ sao từ giữa đời
Đường trở đi chẳng cần nữa? Hai
tông Tiểu Thừa, tức Thành Thật Tông và Câu Xá Tông,
chẳng c̣n nữa, hiện thời ngay cả tên gọi
cũng chẳng nghe nói tới. Tổ sư đại
đức Trung Quốc dùng Nho và Đạo để thay
thế Tiểu Thừa vẫn được! Quư vị
thấy một ngàn bảy trăm năm qua, trải các
đời, bao nhiêu cao tăng đại đức, bao
nhiêu vị tổ sư xuất hiện, cũng có nghĩa
là dùng Nho và Đạo để thay thế bèn tốt
đẹp, càng thân thiết hơn nữa. Hơn nữa,
tâm lượng của Nho và Đạo rộng răi hơn
Tiểu Thừa, chẳng thua kém Tiểu Thừa. Chúng ta
phải hiểu chuyện lịch sử này, hiểu sự
dụng tâm của tổ sư đại đức, dùng
Nho và Đạo để thực hiện phước
thứ nhất trong ba phước, phước thứ
nhất là căn cơ. Có ba căn bản ấy,
đức hạnh của quư vị sẽ thành tựu, có
đức hạnh bèn có phước báo thật sự.
Không có đức hạnh, phước báo ấy là giả,
chẳng thật, thường là giống như hoa Đàm
thoáng hiện! Do vậy, ngạn ngữ có câu: “Phú bất quá tam đại”
(chẳng ai giàu ba đời), đạo lư là ở chỗ
này, v́ sao? Kẻ đó thiếu căn cơ. Phải có
căn cơ th́ mới có thể kéo dài đời
đời kiếp kiếp. Kẻ ấy biết tích công
lũy đức, dẫu phú quư vẫn tu đức, tiếp
tục tu không ngừng, đời đời kiếp
kiếp hưởng thụ chẳng cùng, những
điều này đều là thật.
Có phước thứ nhất
th́ mới có thể nhập Phật môn, quư vị thấy
điều thứ hai là “thọ
tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng
phạm oai nghi”, tức là đă nhập môn. Trước
khi nhập môn phải có điều kiện, điều
kiện là phước thứ nhất. Phước thứ
nhất là như trong kinh điển ta thường thấy
nói “thiện nam tử,
thiện nữ nhân” v́ họ trọn đủ
Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện
Nghiệp, họ là thiện nam tử, thiện nữ nhân,
nên mới có thể thọ tŕ Tam Quy,
đầy đủ các giới, đó là nhập môn. Tam
Quy, giới luật, oai nghi đều có thể tu khá
lắm, đức hạnh thành tựu giống như A La
Hán, như Bồ Tát. Điều ấy mới khiến cho
quư vị thật sự tu Giới, tu Định, tu Huệ
trong Đại Thừa. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại Thừa,
khuyến tấn hành giả”, đó là tam phước.
Mười loại tâm như chúng ta đang đọc
ở đây đều là Bồ Đề tâm, mỗi
điều đều là Bồ Đề tâm, mỗi
điều đều đầy đủ viên măn chín
điều kia. Bồ Tát phát tâm là đệ nhất. Đă
phát tâm, quư vị bèn có phương hướng, có
mục tiêu. Sau đấy là tin sâu nhân quả, câu này rất
quan trọng, câu quan trọng nhất là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, quư
vị có thể tin tưởng nhân quả ấy, trở
về Tịnh Độ, chắc chắn thành tựu trong
một đời này, chẳng c̣n bị lạc
đường nữa! Đọc tụng Đại
Thừa, chính ḿnh đă thành tựu. Câu cuối cùng là
dạy người khác, đă tự hành, phải hóa tha.
Bồ Tát phải độ chúng sanh; nếu không giúp
đỡ người khác, chẳng phải là Bồ Tát! V́
thế, sau đó bèn khuyến tấn hành giả, quư vị
phải khuyên lơn, phải giúp người khác tinh
tấn, phải giúp người khác thành tựu. Quư vị
thấy ba phước thành tựu sẽ tự nhiên
giống như Bồ Tát, Bồ Tát là như thế nào?
Bồ Tát là Lục Ḥa. Lục Ḥa Kính là Bồ Tát, Lục
Ḥa Kính chẳng có tâm tổn hại, chẳng có tâm bức
năo, thật sự thích thủ hộ. Có đầy
đủ đức hạnh như vậy rồi mới
thâm nhập kinh tạng, tu Giới, Định, Huệ, tu
Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh là Lục Độ, tu
mười nguyện Phổ Hiền, tiếp nhận
mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Đấy
là khi Tịnh Tông Học Hội thành lập tại Mỹ,
chúng tôi đă viết một bài giới thiệu duyên
khởi. Trong duyên khởi, nhắc đến năm khoa
mục ấy, lấy [năm khoa mục ấy] làm tiêu
chuẩn, phương hướng và mục tiêu tu học
của chúng ta. Con người hiện thời có nói: “Học làm thầy người,
hạnh làm khuôn mẫu cho đời”. Chúng ta khởi tâm,
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều nêu
gương tốt đẹp cho xă hội, chớ nên nêu
gương xấu!
Thứ tư, “vô chấp trước tâm. Niệm Phật chi nhân,
thường dĩ trí huệ quán sát ư nhất thiết
pháp, bất sanh chấp trước, thị danh vô chấp
trước tâm” (Tâm chẳng chấp trước:
Người niệm Phật thường dùng trí huệ
quán sát hết thảy các pháp, chẳng sanh chấp
trước, đó là tâm không chấp trước). Vô
chấp trước cần có ǵ? Phải có trí huệ, không
có trí huệ là không được, phải có trí huệ chân
thật. Trí huệ do đâu mà có? Từ tâm thanh tịnh phát
ra, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Chớ nên chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, v́ sao? Trong kinh giáo Đại Tiểu Thừa,
đức Phật đă giảng vô cùng rơ ràng luân hồi
trong lục đạo do đâu mà có? Do chấp
trước mà ra. Chẳng c̣n chấp trước nữa,
quư vị cũng rất dễ vượt thoát luân hồi.
Chỉ cần quư vị có chấp trước, sẽ chẳng
vượt thoát luân hồi; luân hồi do chấp
trước biến hiện. Đức Phật bảo
ngoài lục đạo c̣n có bốn thánh pháp giới,
tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, [bốn
pháp giới ấy] cao hơn chúng ta. Họ do nguyên nhân ǵ mà
có? Họ có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp
trước, họ có tâm phân biệt cho nên có bốn thánh
pháp giới. Chấp trước là Phiền Năo
Chướng, vô lượng vô biên phiền năo đều từ
đây sanh ra, quư vị buông xuống bèn chẳng c̣n có chuyện
ǵ nữa! Phân biệt là Sở Tri Chướng, hai thứ
chướng ngại này đều chướng ngại
con người minh tâm kiến tánh. Nếu chúng ta trở
về tự tánh, hai thứ chướng ngại ấy
đều chẳng c̣n nữa. V́ vậy, trong giáo pháp
Đại Thừa, đức Phật thường nói:
Chúng ta buông chấp trước xuống (Kiến Tư
phiền năo đă đoạn), bèn chứng quả A La Hán,
thành Chánh Giác, chứng quả A La Hán vượt thoát
lục đạo. Bởi lẽ, lục đạo là
mộng cảnh, chỉ cần Chánh Giác hiện tiền,
lục đạo chẳng c̣n nữa, đă tỉnh
giấc rồi, đă tỉnh khỏi giấc mộng
rồi. Sau khi tỉnh lại, vẫn c̣n trong mộng,
[bởi lẽ] lục đạo là mộng trong mộng,
đó là ǵ? Bốn thánh pháp giới. Bốn thánh pháp giới
vẫn là mộng cảnh. Ắt phải buông phân biệt
xuống, đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng phân biệt. Tâm phân
biệt đoạn mất, tâm ấy càng thù thắng
hơn tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh không có chấp
trước, nhưng có phân biệt. Trong tâm b́nh đẳng
không chỉ chẳng có chấp trước, mà phân biệt
cũng không có. Nay chúng ta nói là “ḥa hài” (hỗ tương
hợp tác, ư kiến ḥa hợp), nói đến ḥa b́nh khó
lắm. V́ sao ḥa b́nh khó khăn dường ấy?
Người nào đạt được ḥa hài chân
thật? Bồ Tát! A La Hán cũng chưa làm
được, v́ sao? Bồ Tát chứng đắc tâm b́nh
đẳng, hễ b́nh đẳng bèn ḥa!
Bởi lẽ đó,
người Trung Quốc nói đến ḥa b́nh th́ “ḥa” do đâu mà có? Do b́nh mà có,
tức là do b́nh đẳng mà có. Người Trung Quốc
nói đến quả trước, sau đấy mới nói
đến nhân. Người Nhật nói thành “b́nh ḥa” (heiwa) tức là nói nhân trước,
quả sau; quư vị hăy xem văn tự của Nhật
Bản. Bất b́nh lẽ nào có ḥa hợp? Cao hơn thanh
tịnh! V́ vậy, trong bốn thánh pháp giới, chủ
yếu là tu tâm b́nh đẳng. Trong tựa đề kinh
này có “thanh tịnh b́nh đẳng”, Bồ Tát tu b́nh
đẳng. Buông phân biệt xuống, b́nh đẳng
hiện tiền, trong Phật pháp nói quư vị đă chứng
đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. A La Hán chứng Chánh
Giác, Bồ Tát chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác,
Đẳng là bằng với Phật. Lại lên cao hơn
nữa là phá vô minh phiền năo, vô minh phiền năo là ǵ?
Khởi tâm động niệm. Quư vị thấy: Không chỉ
chẳng có phân biệt, chấp trước, mà kể
cả khởi tâm động niệm cũng không có, đó
gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đă
thành Phật. Hành nhân tu hành chứng quả, “hành nhân” là
học tṛ. Nói theo cách bây giờ, cũng có thể nói [hành
nhân] là người tu hành, có thể giải thích hành nhân là
người tu hành, phải thường dùng Giới,
Định, Trí Huệ. Ngài nói “thường dùng trí
huệ”, tôi thêm vào trước đó Giới và
Định, v́ trí huệ do Giới và Định mà có.
Giới có thể đắc Định; không tŕ giới,
tâm quư vị sẽ chẳng định được! Tŕ
giới chẳng nhằm mục đích nào khác, nhằm
đắc Định! Thiền Định vẫn là
phương tiện, chưa phải là mục đích, v́
sao phải tu Định? Nhằm khai trí huệ; tâm
định, trí huệ sẽ khai. Trí huệ quán hết
thảy các pháp, quư vị mới thật sự có thể
triệt để buông xuống chấp trước, phân
biệt, khởi tâm động niệm! V́ sao? Đó là
giả, là chướng ngại, chướng ngại trí
huệ và đức tướng sẵn có trong tự tánh
của quư vị. Quư vị nói nay ta muốn phát tài, ta mong
sẽ có hết thảy của cải, quư vị có thể
có toàn bộ địa cầu được hay không? Có
thể. Quư vị có thể biến toàn thể địa
cầu thành hoàng kim, châu bảo được không? Có
thể. V́ sao nay quư vị không làm được? V́ quư
vị có chấp trước, khiến cho toàn bộ
đức năng trong tự tánh bị chướng
ngại, quư vị sống khổ sở ngần ấy! Nếu
khôi phục, quư vị sẽ giống như A Di Đà
Phật. Quư vị thấy Ngài trụ trong thế giới
Cực Lạc, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu
với chúng ta một phần vạn, làm sao có thể
giới thiệu trọn hết cho được?
Trong thế giới Cực
Lạc, thân thể như thế nào? Thân Kim Cang bất
hoại, thật sự là vô lượng thọ, chẳng
giả, vĩnh viễn chẳng già yếu. Quư vị có
muốn hay không? Hoàn cảnh cư trụ của quư vị
là cung điện bảy báu; hiện thời chúng ta dùng
những thứ trân châu, mă năo làm đồ trang sức, quư
báu khôn ngằn. Trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, những thứ ấy là vật liệu để
xây dựng, chỗ nào cũng có! Hoàng kim quư báu vô cùng,
nhưng trong thế giới Cực Lạc, hoàng kim
để lót đường, giống như nhựa
đường trong thế gian này được dùng
để lót đường! Từ chỗ này, quư vị
nghĩ xem sự phú quư nơi ấy là ǵ? Chính là những
thứ quư vị vốn tự ḿnh sẵn có! Thật
sự hiểu rơ, thật sự minh bạch, trong thế
gian này chẳng có chút ǵ hiếm hoi, lạ lùng! Giống
như quư vị thuộc gia đ́nh đại phú
đại quư, nay đến nơi đây du lịch văn cảnh,
thấy thổ dân ở nơi này đeo những món trang
sức bằng đồng hay bằng thiếc. Quư vị
thấy họ cảm thấy những thứ đó
đẹp đẽ khôn xiết, quư vị cười mà
thôi, hiểu rơ rồi! Quả thật người trong
thế giới Cực Lạc, đừng nói thế
giới Cực Lạc, chư thiên [trong thế giới Sa
Bà] thấy loài người chúng ta đáng thương
lắm! Nếu chúng ta nhất niệm hồi quang, tiến
lên, đặc biệt là văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, quư vị thấy hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là cảnh
giới ǵ? [Cảnh giới ấy do] A Di Đà Phật
tự nói, tuyệt đối chẳng phải là lời
giả, hạ hạ phẩm văng sanh cũng là A Duy Việt
Trí Bồ Tát. Điều này có nghĩa là: Chỉ sợ quư
vị không đến được thế giới
Cực Lạc, chỉ sợ chẳng văng sanh; hễ
thật sự đến thế giới Cực Lạc,
đến nơi ấy với phẩm vị thấp
nhất th́ trí huệ, thần thông, đạo lực và
sự hưởng thụ của quư vị chẳng khác
Thất Địa Bồ Tát. Pháp môn này được
gọi là pháp khó tin, đúng là khó tin! Nhưng chúng ta tin
tưởng Phật chẳng nói dối, chẳng nói
lời giả, lời Phật nói chắc chắn chân
thật, chẳng giả, chúng ta thật sự làm th́
sẽ thật sự đạt được.
Cơ hội này chẳng
phải là ngàn năm khó gặp, thời gian một ngàn
năm quá ngắn ngủi! Cư sĩ Bành Tế Thanh đă
nói: “Vô lượng kiếp lai
hy hữu nan phùng đích nhất thiên” (một ngày khó
gặp hiếm có từ vô lượng kiếp đến
nay), chúng ta đă gặp gỡ! Vơ Tắc Thiên đă
viết lời kệ Khai Kinh cho kinh Hoa Nghiêm: “Bách thiên vạn kiếp nan tao
ngộ” (trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ);
nay chúng ta đă gặp gỡ, nếu ở trước
mặt mà bỏ lỡ, đúng là quư vị đă sai lầm
quá đỗi! Đặc biệt là chúng ta thấy trong
hiện thời tai nạn nhiều ngần ấy, các đồng
học học Phật hiểu rơ, trong tâm đă có căn
cứ, biết tai nạn phát sanh như thế nào, cũng
biết dùng phương pháp ǵ để hóa giải, hăy
giành lấy duyên phận thù thắng này, nắm chắc
niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc,
điều đó càng thù thắng hơn. Hoàn cảnh hiện
thời có lợi rất lớn, v́ sao? Chẳng có hoàn
cảnh như vậy th́ quư vị vẫn chẳng phát tâm,
hăy c̣n lưu luyến thế gian này. Nay đă biết trong
hoàn cảnh hiện tiền, chẳng thể lưu lại
được, chẳng có vật nào ở ngoài thân mà ḥng
giữ được, ngay cả thân thể của chính
ḿnh sợ c̣n chẳng giữ được! Hăy thừa
cơ hội này mà ra đi th́ tốt lắm! Thời gian
hai ba năm là đủ rồi, nhiều vị đại
đức xưa nay đă chứng minh cho chúng ta thấy.
V́ thế, phải dùng Giới, Định, Huệ
để quan sát hết thảy các pháp, điều quan
trọng là chớ sanh chấp trước. Hăy thực
hiện trong cuộc sống hằng ngày, học theo Thích Ca
Mâu Ni Phật hết thảy tùy duyên: Đối với chuyện
ăn uống, sinh sống, người khác cúng
dường ǵ ăn nấy, chớ nên chấp
trước, đừng nên phân biệt, hăy thực
hiện từ chỗ này, hăy tùy duyên trong ăn uống, sinh
sống. Chớ nên cầu cạnh bất cứ ai, hăy tùy
phận sống qua ngày, thật thà niệm Phật,
điều này trọng yếu hơn bất cứ điều
ǵ khác, đó gọi là tu hành chân thật. Thật sự
chẳng có tâm chấp trước, đối đăi b́nh
đẳng với hết thảy mọi người,
đối xử ḥa thuận, và cũng thật sự
thực hiện Lục Ḥa Kính. Phần sau hăy c̣n sáu
điều nữa, nhưng hôm nay đă hết thời gian
rồi, chúng ta học tập tới đây!
Tập
94
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm lẻ bảy, hàng thứ ba từ
dưới đếm lên, xem từ chữ thứ ba trong
ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.
“Thứ
liệt Di Lặc giả, Đại Bảo Tích Kinh Phát
Thắng Chí Nhạo Hội, Di Lặc vấn Phật:
Nhược hữu chúng sanh phát thập chủng tâm, tùy
nhất nhất tâm chuyên niệm hướng ư A Di
Đà Phật, thị nhân mạng chung đương
đắc văng sanh bỉ Phật thế giới. Thế
Tôn! Hà đẳng danh vi phát thập chủng tâm?” (Kinh
Đại Bảo Tích, pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù
Thắng Chí Nhạo, có chép ngài Di Lặc hỏi Phật: “Nếu có chúng sanh phát
mười tâm, đối với mỗi tâm chuyên niệm
hướng về A Di Đà Phật, người ấy
mạng chung sẽ được văng sanh thế giới
của đức Phật ấy. Bạch Thế Tôn!
Những ǵ gọi là phát mười thứ tâm?”). Trong
phần trước, chúng ta học đến chỗ này,
[chúng tôi] trích lục đoạn kinh nói về “phát
mười thứ tâm” trong kinh Đại Bảo Tích. Trong
phần trước, chúng ta đă học bốn tâm trong
mười thứ tâm, thứ nhất là vô tổn hại
tâm, thứ hai là vô bức năo tâm, thứ ba là nhạo
thủ hộ tâm, thứ tư là vô chấp trước
tâm, trong mỗi tâm bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận. Hôm
nay, chúng ta lại xem tâm thứ năm: “Khởi tịnh ư tâm. Niệm Phật chi nhân, năng
ly thế gian tạp nhiễm chi pháp, phục ư lợi
dưỡng đẳng sự, thường sanh tri túc chi
tâm, thị danh khởi tịnh ư tâm” (Khởi tịnh ư
tâm: Người niệm Phật có thể ĺa pháp tạp
nhiễm thế gian, tâm lại thường biết
đủ đối với những sự như lợi
dưỡng v.v... th́ gọi là khởi tịnh ư tâm).
Điều này nói tới “chẳng tham”, hai điều
trước đó là “chẳng giết”, điều thứ
ba là hộ pháp, điều thứ tư vô cùng quan
trọng, buông chấp trước xuống. V́ trong các kinh
Đại Tiểu Thừa, đức Phật
thường dạy chúng ta, nếu chúng ta có thể
chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, đức Phật nói quư vị
sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi. Do
điều này có thể biết lục đạo luân
hồi do đâu mà có? Do chấp trước mà có, chỉ
cần quư vị có ư niệm chấp trước, hiện
tượng luân hồi bèn xuất hiện.
Người thật sự giác
ngộ sẽ như Vĩnh Gia đại sư đă nói
trong Chứng Đạo Ca. Ngài Vĩnh Gia là người
đời Đường, cùng thời đại với
Lục Tổ của Thiền Tông, và cũng là học tṛ
của Lục Tổ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật trong hội của Lục Tổ. Suốt
đời Lục Tổ, trong số các học tṛ có
bốn mươi ba người thành tựu, “thành tựu”
là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh
không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n
vượt thoát mười pháp giới, thật sự
thành tựu! A La Hán chỉ là tiểu thành tựu, chẳng
thể coi là thành tựu thật sự. Ngài chỉ
thoát ly lục đạo luân hồi, chưa thoát ly
mười pháp giới. Chúng ta biết luân hồi do ư
niệm chấp trước mà xuất hiện; do vậy,
Vĩnh Gia đại sư bảo: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (trong
mộng rành rành phô sáu nẻo), “lục
thú” là lục đạo luân hồi; “giác hậu không không vô đại thiên” (giác
rồi ba cơi rỗng toang hoang), đă giác ngộ sẽ không
chấp trước. Chấp trước là mê, mê mà bất
giác nên mới chấp trước, nhưng chấp
trước nghiêm trọng nhất là t́nh chấp, thứ
này cũng chẳng thật. Chấp trước chẳng
c̣n th́ lục đạo chẳng c̣n! A La Hán chẳng c̣n
chấp trước, nhưng c̣n có phân biệt. Có phân
biệt th́ có bốn thánh pháp giới, tức là Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, có những pháp giới ấy
xuất hiện. Những pháp giới ấy vẫn là
mộng, cũng chẳng thật. Lục đạo là
mộng trong mộng, quư vị thấy đó, mê rất sâu!
Từ lục đạo
tỉnh giấc, cảnh giới hiện tiền là bốn
thánh cảnh giới, bốn thánh cảnh giới vẫn là
mộng, vẫn chẳng thật. Lại phải buông phân
biệt xuống! Không chỉ chẳng chấp
trước, mà c̣n vĩnh viễn ĺa khỏi phân biệt
đối với hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian. Sau đấy, lại nâng cao công phu
tới mức “chẳng khởi tâm, không động
niệm”, sẽ chẳng thấy mười pháp giới.
Đúng như đức Thế Tôn đă dạy trong kinh
Bát Nhă: “Phàm những ǵ có
tướng đều là hư vọng”, mười
pháp giới có tướng, nên chúng chẳng thật,
đạt đến một tŕnh độ nhất
định sẽ chẳng thấy cảnh giới
nữa, nó tiêu mất. V́ thế, các nhà khoa học hiện
đại bảo chúng ta: Vũ trụ to lớn vô cùng
tận, khoa học hiện thời có thể thăm ḍ
vũ trụ vĩ mô, nhưng chỉ có thể thăm ḍ
mười phần trăm của toàn thể vũ
trụ. Nói cách khác, hăy c̣n chín mươi phần trăm
vũ trụ chưa thấy! Chúng ta nghe câu ấy bèn
hiểu, người tu học Đại Thừa bèn hiểu
rơ, lời các nhà khoa học nói là thật, chín mươi
phần trăm chẳng thấy, v́ sao không thấy? Đă
tỉnh mộng, sau khi tỉnh giấc, chẳng thấy
cảnh giới trong mộng nữa, do đạo lư này. V́
thế, họ đă ḍ xét chân tướng vũ trụ khá
lắm, chúng ta rất bội phục, [nhưng họ]
vẫn chưa đạt đến rốt ráo, vẫn
chưa triệt để. Nếu đạt đến
triệt để, tôi tin là sẽ hoàn toàn giống như
kinh Đại Thừa đă nói.
Mười pháp giới
chẳng c̣n, xuất hiện cảnh giới ǵ? Chính là cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai như
trong Phật pháp thường giảng, hoặc thế
giới Cực Lạc như trong Tịnh Độ Tông
đă nói, hoặc thế giới Hoa Tạng như trong kinh
Hoa Nghiêm đă nói. Những thế giới ấy
đều là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chúng ta c̣n gọi nó là
Nhất Chân pháp giới. Nó có thật hay không? Nếu nó là
thật, th́ trong kinh Bát Nhă, đức Thế Tôn phải
nói: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng, trừ cơi Thật
Báo Trang Nghiêm của chư Phật ra!”, phải nói theo
cách ấy. Đức Phật chẳng nói ngoại trừ
cơi Thật Báo của chư Phật; do vậy, có thể
biết cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật
Như Lai cũng được gộp vào trong ấy, chúng
ta chẳng nghe sai lời Phật dạy, có đúng hay không?
Đúng! Cơi Thật Báo Trang Nghiêm v́ sao mà có? Nó cũng là
hư vọng, là hư vọng cuối cùng; nhưng hư
vọng ấy rất khó đột phá, v́ sao? Nó do tập
khí vô thỉ vô minh hiện ra. Tập khí vô thỉ vô minh: Vô
thỉ vô minh là khởi tâm động niệm, chẳng
khởi tâm, không động niệm, vô minh bèn bị phá. Tuy
đă phá vô minh, tập khí vẫn c̣n, nhưng tập khí
ấy chẳng nẩy sanh chướng ngại đối
với chính ḿnh và đối với sự giáo hóa chúng sanh.
Do vậy, sau khi phá vô minh, nói theo thực tế, trí huệ,
thần thông, đạo lực vô cùng giống với
quả vị rốt ráo, chỉ là kèm theo tập khí. Trừ
điều này ra, chẳng có ǵ khác với quả vị
rốt ráo.
Địa vị Diệu Giác là
Phật quả rốt ráo, trong mười pháp giới,
thuận theo nghiệp cảm của chúng sanh, Ngài có thể
hiện thân thuyết pháp, có thể hiện vô lượng
vô biên thân. Do vậy nói: “Nên dùng
thân ǵ để độ được, bèn hiện thân
ấy”. Sự ứng hiện ấy không do ư nghĩ
của chính ḿnh, chư vị phải hiểu, trong Viên Giáo,
từ hàng Sơ Trụ Bồ Tát trở lên không có ư nghĩ
của riêng ḿnh. Nếu chính ḿnh vẫn c̣n có ư nghĩ,
chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nếu
chúng ta hỏi: A La Hán có ư nghĩ của riêng ḿnh hay
chăng? Không có! A La Hán có phân biệt, nhưng chẳng có ư
nghĩ. Nếu chính ḿnh có ư nghĩ, sẽ chẳng thoát
khỏi lục đạo. Bởi lẽ, một
điều kiện để thoát lục đạo là phá
Kiến Tư phiền năo, do ư nghĩ thuộc về Tư
Hoặc nên chẳng thể có [ư nghĩ mới ḥng thoát
khỏi lục đạo]. Sơ Quả Tu Đà Hoàn
đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, điều
nghiêm trọng trong Kiến Hoặc là có Thành Kiến. Thành
Kiến là ư nghĩ, chủ trương, cách nghĩ, cách
nh́n của ta, chấp trước những thứ này,
trật rồi. Hễ có chấp trước ấy th́ ngay
cả Sơ Quả cũng chẳng chứng
được, thật sự là lục đạo phàm phu.
V́ thế, điều này được gọi là công phu.
Công phu tu hành chẳng có chi khác, chẳng phải là niệm
kinh cho nhiều, hay công phu định lực sâu bao nhiêu,
không phải vậy! Công phu thật sự là hoàn toàn buông
xuống, đừng nên chấp trước, chớ nên
phân biệt, chớ nên khởi tâm động niệm,
thảy đều buông xuống, đó là công phu, như
vậy th́ mới có thể thật sự nâng cao linh tánh
của chính ḿnh. V́ vậy, trong mỗi điều
đều bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận, chúng ta
phải ghi nhớ trong tâm, phải nghiêm túc học tập.
Hôm nay, chúng ta xét tới “khởi tịnh ư tâm”.
Khởi (起)
là sanh khởi. Ư chớ nên nhiễm ô, ư là tâm, đó là
vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là thanh
tịnh, quyết định chẳng có nhiễm ô. Ư là
vọng tâm, hiện thời chúng ta luôn dùng vọng tâm. Ai
dùng chân tâm? Chư Phật Như Lai dùng chân tâm, Pháp Thân
Bồ Tát dùng chân tâm, những ai chưa minh tâm kiến tánh
đều sử dụng vọng tâm, tức là ư niệm,
luôn dùng thứ này. Bồ Tát và Phật trong mười pháp
giới đều dùng vọng tâm, bất quá người
ta sử dụng rất chánh đáng, chánh đáng là ǵ? Ư
họ thanh tịnh, c̣n ư của chúng ta là nhiễm ô, họ
vẫn dùng ư. Từ Pháp Thân Bồ Tát trở lên không dùng ư
nữa, ư chẳng c̣n, ư biến thành ǵ? Ư biến thành B́nh
Đẳng Tánh Trí, chư vị phải biết: Ư là
Mạt Na Thức. Kinh luận Tướng Tông dạy chúng
ta, chuyển Mạt Na thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chuyển
A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chuyển thức
thứ sáu (Ư Thức) thành Diệu Quán Sát Trí, chuyển
thức thành trí, thoát khỏi mười pháp giới. Trong
mười pháp giới th́ chưa chuyển, nhưng họ
đúng là thật thà, biết nghe lời, thật sự làm,
thực hiện một trăm phần trăm những
điều đức Phật đă chỉ dạy.
Vấn đề là chưa chuyển được.
Hễ chuyển được, bèn vượt thoát
mười pháp giới, đạt đến Nhất Chân
pháp giới. V́ thế, ở đây Bồ Tát dạy chúng ta,
quư vị thấy người niệm Phật nếu làm
được mười thứ tâm này, không chỉ
vượt thoát lục đạo luân hồi, mà cũng
sẽ nhanh chóng vượt thoát mười pháp giới.
Đầu tiên là tách rời pháp
thế gian tạp nhiễm, “tạp”
(雜)
là chẳng thuần, quá phức tạp rồi, “nhiễm” (染) là chẳng thanh tịnh, là nhiễm ô,
phải tách rời những thứ ấy, tách rời là
buông xuống. Tạp nhiễm vô lượng vô biên,
những điều mắt chúng ta thấy, tai chúng ta nghe,
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần đều
là pháp tạp nhiễm. Hiện tại xă hội tạp
nhiễm tới mức băo ḥa, tạp nhiễm tới cùng
cực, nẩy sanh một hiện tượng vô cùng rơ
rệt trong xă hội, [hiện tượng ấy chính là]
xă hội động loạn, môi trường sống thay
đổi, môi trường sống là hoàn cảnh tự
nhiên của chúng ta. Nay chúng ta nói địa cầu có tai
nạn nhiều dường ấy, khắp nơi
đều có, do nguyên nhân nào? Là v́ pháp tạp nhiễm đă
quá mức, nên biến thành nông nỗi ấy! Cổ nhân
Trung Quốc có nói một câu được ghi trong Tả
Truyện, tức là bộ Tả Truyện do Tả Khâu Minh
viết, đó là tác phẩm chú giải kinh Xuân Thu của
Khổng Tử. Ông này rất lỗi lạc! Trong sách ấy,
có một câu như sau: “Nhân khí
thường tắc yêu hưng”, [nghĩa là] nếu
người ta vứt bỏ đạo lư thường
hằng, “thường” là ǵ vậy? Chính là Ngũ
Thường, cũng có thể nói là năm thứ pháp
đúng mực. Nếu con người chẳng cần
đến những thường pháp ấy, toàn bộ yêu
ma quỷ quái sẽ xuất hiện, xă hội hiện
thời thuộc về t́nh cảnh này.
Trong Ngũ Thường:
1) Điều thứ nhất là
Nhân. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là Ngũ Thường. Nhân
là ǵ? Nhân là suy từ ḿnh mà nghĩ đến người.
Quư vị thấy chữ Nhân (仁) trong tiếng Hán là hai người, Nhân
trong “nhân từ” là hai người, nghĩ đến chính
ḿnh liền lập tức nghĩ đến người
khác. Do vậy, “nhân giả ái
nhân” (người nhân từ yêu thương con
người), “phàm thị nhân,
giai tu ái” (hễ là người, đều phải yêu
thương), đó là Nhân. Con người hiện thời
chẳng yêu thương người khác. Không chỉ
chẳng yêu thương người khác, mà con người
hiện thời cũng chẳng yêu thương chính ḿnh, v́
sao? Con người phải giữ vững Ngũ
Thường. Làm được Ngũ Thường, đó
là yêu thương chính ḿnh, là “tự ái” (tự yêu
thương ḿnh). Do vậy, kẻ chẳng yêu thương
chính ḿnh th́ c̣n làm sao được nữa? Thiếu căn
cơ! Trong xă hội hiện thời, t́m chẳng ra!
2) Thứ hai là Nghĩa, Nghĩa
được giải thích ra sao? Nghĩa là tuân theo Lư,
tức là hết thảy đều tuân theo một
đạo lư, tuân thủ đạo lư ǵ vậy? Quy
luật, pháp tắc của thiên nhiên, giống như
thực vật mùa Xuân sanh, mùa Hạ tăng trưởng,
mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông ẩn tàng. Đó là quy
luật thiên nhiên. Đời sống của con
người phải phù hợp Ngũ Thường và
Ngũ Hành, thân tâm mới khỏe mạnh. Trong thời
đại hiện tại, sùng bái, đề cao khoa học,
khoa học làm ǵ? Phá hoại toàn bộ môi trường thiên
nhiên! Thực vật sanh sôi vào mùa Xuân, mùa Hè ta cũng
bắt nó sanh, tiết Thu cũng bắt nó sanh, trời
Đông cũng bắt nó sanh, rối loạn nó, sanh,
trụ, dị, diệt đều bị rối tung,
đấy là bất nghĩa. V́ thế, nói về Nghĩa
theo phương diện con người th́ nói đơn
giản là tư tưởng và hành vi của chúng ta hợp
t́nh, hợp lư, hợp pháp bèn gọi là Nghĩa. Trái
nghịch t́nh, lư, pháp sẽ là bất
nghĩa. Lễ là lễ tiết, lễ tiết trọng
yếu. V́ thế, cổ nhân rất coi trọng lễ
tiết, chẳng dám khinh mạn, lễ tiết nhỏ
nhặt cũng chẳng bỏ sót. V́ sao? Đấy là tôn
trọng thiên nhiên, tôn trọng đạo. Nếu
chẳng có lễ, toàn bộ đều chẳng có.
Giống như cất nhà, hay xây cao ốc, nó là nền
tảng; không có nền tảng, lầu cao cách mấy
cũng chẳng xây thành công. Phật pháp coi trọng lễ,
xếp nó thành điều thứ nhất. Quư vị
thấy mười đại nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát, thứ nhất là lễ
kính chư Phật, rất trọng yếu, làm sao có thể
coi thường được? V́ thế, Trung Quốc
từ xưa tới nay được gọi là “lễ nghĩa chi bang” v́ người
Trung Quốc hiểu lễ, tôn trọng lễ. Vừa
mở Lễ Kư trong Ngũ Kinh của Nho gia ra, câu
đầu tiên là: “Khúc Lễ
viết, vô bất kính” (sách Khúc Lễ nói: “Không ǵ
chẳng kính”). Chẳng có chuyện ǵ không cung kính.
Đối với người, đối với sự,
đối với vật đều phải cung kính. V́ sao
phải cung kính? Đức Phật đă giảng thấu
triệt nhất, v́ toàn thể vũ trụ và bản thân
chúng ta là một Thể, một tự tánh, tâm hiện, thức
biến.
Hiện tại các nhà khoa
học rất khó có, giúp chúng ta giải
quyết rất nhiều vấn đề, nâng cao tín tâm
của chúng ta. Các khoa học gia bảo: Trong vũ trụ
chẳng có vật chất, hiện tượng vật
chất là ǵ? Là một loại huyễn tướng do ư
niệm của chúng ta liên tục tích lũy sanh ra. V́ sao
vật chất có chất rắn, chất lỏng, và
chất khí, v́ sao có những hiện tượng ấy? Đối
với chất rắn như phù sa, đá tảng, đá cục,
các nhà khoa học phát hiện: Do tốc độ dao
động của ư niệm chúng ta khá chậm, biến
thành trạng thái vật chất như đá tảng, phù sa,
tức trạng thái rắn. Nếu tần suất nhanh
hơn một chút, nó biến thành chất lỏng, giống
như nhục thể của loài động vật chúng
ta, tuy cũng là vật chất, nhưng chẳng cứng
chắc như chất rắn. [Tần suất] mau hơn
nữa, biến thành chất hơi. Nhanh nhất bèn
biến thành sóng điện từ (electromagnetic wave), sóng ánh
sáng cũng là một loại sóng điện từ. V́
thế, hết thảy hiện tượng vật
chất đều trở về quang tử (photon), là
năng lượng. Năng lượng và vật chất
chuyển biến trở thành lẫn nhau, khoa học gia
đă phát hiện điều này từ lâu, nhưng hiện
thời vẫn chưa thể biến vật chất thành
năng lượng dễ dàng như ư muốn. Bom nguyên
tử đă được phát minh dựa trên đạo
lư này. Làm thế nào để biến năng lượng
thành vật chất? Họ biết chuyện này là có
thể, nhưng vẫn chưa biết phương pháp!
Phật pháp đă biết, Phật pháp quả thật có
thể biến năng lượng thành vật chất,
hiện tượng ấy rất phổ biến trong báo
độ của chư Phật Như Lai. Do vậy, quan
sát từ góc độ này, thế giới của Phật,
Bồ Tát thật sự là cảnh giới khoa học cao
nhất, thù thắng hơn chúng ta quá nhiều!
Nhưng khoa học kỹ
thuật nhất định phải được
kiến lập trên cơ sở luân lư, đạo
đức, nó mới thật sự có
thể giúp cho con người đạt tới cảnh
giới hạnh phúc mỹ măn. Nếu thiếu khuyết luân
lư, đạo đức, khoa học kỹ thuật có
thể đi ngược quy luật thiên nhiên, đi theo
chiều hướng tương phản, đem
lại tai hại cho nhân loại và thiên nhiên. Bậc thánh
triết phương Đông, tổ tiên, chư Phật,
Bồ Tát đều hiểu điều ấy, nên đă đặt
nền tảng của giáo dục trên luân lư, đạo
đức, nhân quả. Chẳng vun bồi vững bền
những căn cội ấy th́ khoa học kỹ thuật
phải tiến bộ thong thả một chút, chẳng
thể tiến quá nhanh, nhất định phải đi
sau luân lư, đạo đức mới không xuất
hiện vấn đề. Nếu vứt bỏ luân lư,
đạo đức, cứ mê mệt lo tiến triển khoa
học, hậu hoạn sẽ vô cùng, xă hội và
địa cầu chúng ta hiện thời xuất hiện tai
nạn nhiều ngần ấy là do nguyên nhân ở chỗ
này, chúng ta thấy rất rơ ràng; nhưng những lời
ấy chẳng phải do chúng tôi nói trước tiên, mà là
những điều thường được nhắc
tới trong ngôn luận của tiến sĩ Thang Ân Tỷ
nước Anh trong thập niên bảy mươi. Thời
đại ấy hoàn toàn chưa nghiêm trọng lắm,
hiện thời vấn đề nghiêm trọng đă
xuất hiện, chúng ta suy nghĩ giáo huấn của
cổ thánh tiên hiền, suy nghĩ lời bàn luận
của tiến sĩ Thang Ân Tỷ, đúng là chẳng
giả!
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
chẳng do bậc thánh hiền phát minh hay sáng tạo;
nếu chúng ta giữ quan niệm [thánh hiền đă sáng
chế những điều ấy], quư vị đă hoàn toàn
sai lầm. Nếu quư vị hỏi một vị
đại thánh đại hiền chân chánh, Ngài sẽ nói
lời thật cùng quư vị, cả đời Ngài có sáng
tạo hay không? Không có! Có phát minh hay không? Không có. Khổng
Tử nói thật thà, Khổng Tử bảo cả
đời Ngài “thuật nhi
bất tác” (kể lại chứ không trước tác),
có nghĩa là Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh.
Những điều Ngài học, tu, dạy, truyền
lại toàn là những thứ của cổ nhân trong quá
khứ, chẳng có ǵ là của chính ḿnh. Ngài nói lời chân
thật, thật thà. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
được tổ tông các đời truyền thừa,
chẳng phải do Ngài nói. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta
giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm,
Ngài có sáng tạo, phát minh hay không? Ngài nói “không có”, và c̣n nói rơ
ràng hơn Khổng phu tử, lời ấy đă
được Thanh Lương đại sư nêu ra trong
bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa. Thích Ca Mâu Ni
Phật nói hết thảy các kinh do Ngài đă giảng trong
bốn mươi chín năm chẳng phải là của
Ngài, mà do các vị cổ Phật đă nói. Ngài c̣n nói: “Ta chẳng nói nhiều hơn
một chữ so với kinh của chư cổ Phật
đă giảng”, nói c̣n nghiêm ngặt hơn Khổng lăo
phu tử. Khổng lăo phu tử chỉ nói “thuật nhi bất tác”, một câu nói hàm hồ,
chung chung! Thích Ca Mâu Ni Phật nói cụ thể dường
ấy, chẳng thêm vào kinh giáo của cổ Phật
một chữ nào. Quư vị thấy “tín nhi hiếu cổ” (tin tưởng, chuộng
cổ), tin tưởng, yêu thích những thứ của
cổ nhân; c̣n người hiện thời ra sao?
Người hiện thời chẳng tin những thứ
của cổ nhân, [cho rằng] mọi thứ của
cổ nhân đă lỗi thời, đều có thể
vứt bỏ, chẳng cần đến nữa, hiện
thời phải sáng tạo cái mới. Tôi c̣n nghe nói: “Trong
vườn trẻ, thầy cho bài tập đ̣i hỏi
trẻ nhỏ phải sáng tạo cái mới”, tôi nghe mà kinh
sợ, từ bé tí như vậy mà đă bắt chúng nó sáng
tạo cái mới, đáng sợ chưa? Những thứ
của cổ thánh tiên hiền đều bị đào
thải sạch sành sanh, vậy th́ thế giới này
phải hủy diệt. Tôi vừa mới nói, [những ngôn
luận, tư tưởng, trước tác của] cổ
thánh tiên hiền chẳng phải là sáng tạo, mà là tánh
đức, những ǵ được đời
đời truyền lại đều là tánh đức
trong tự tánh, đều là những thứ chúng sanh
vốn sẵn có trong tánh đức. Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật đă nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, Như Lai là tự tánh,
trong tự tánh của hết thảy chúng sanh vốn có vô
lượng trí huệ, vô tận trí huệ, chẳng
phải do bên ngoài mà có. Không chỉ có trí huệ, mà c̣n có
đức năng, nay ta gọi [đức năng là]
năng lực, không ǵ chẳng thể, trong tự tánh
của quư vị vốn sẵn có [những đức
năng ấy]. Thứ ba là nói tới tướng hảo,
nay ta gọi tướng hảo là phước báo. Trí huệ,
năng lực, và phước báo mọi người
đều b́nh đẳng, chẳng có mảy may sai
biệt nào! Nay v́ sao không có? V́ sao bất b́nh đẳng? Do
phiền năo khởi tác dụng, phiền năo là ǵ? Khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước,
những thứ ấy dầy hay mỏng khác nhau, cho nên trí
huệ và đức tướng tỏ lộ không
giống nhau.
Ở đây, đức
Phật dạy chúng ta là dạy hàng sơ học, hăy ĺa
khỏi các pháp tạp nhiễm trong thế gian. Cội
rễ của tạp nhiễm chính Ngă Chấp như chúng
tôi đă nói trong phần trước, trong chấp
trước nói đến Ngă Chấp, chấp trước
cái thân là ta, đó là cội nguồn của hết thảy
họa hoạn. V́ thế, nhà Phật nói Vô Ngă. Vô Ngă
chẳng phải là thật sự không có Ngă, mà là nói lục
đạo chúng sanh chấp trước thân là ta, [sự
chấp trước ấy] sai lầm. Có Chân Ngă hay không? Có Chân
Ngă. Nay chúng ta không nhận biết Chân Ngă, ngỡ Giả Ngă
là Chân Ngă, Giả Ngă là ǵ? Giả Ngă là cái ta có, giống
như quần áo, quần áo là cái ta có. Hiện thời
một người nghiễm nhiên có những thứ hồ
đồ như vậy, quên khuấy [Chân] Ngă, coi y phục
là ta. T́nh h́nh của lục đạo chúng sanh là như
thế, coi quần áo là ta, quên bẵng cái Ngă thật sự,
hết thảy toàn là lo toan cho quần áo, quư vị nói xem có
oan uổng hay không? Do vậy, đức Phật bảo
chúng ta đă mê, đó là căn cội, nguồn gốc,
khởi đầu của mê. V́ thế, đức Phật
dạy chúng ta trước hết phải phá Ngă Chấp.
Phá trừ Ngă Chấp, chẳng c̣n chấp trước thân
này là ta, chúc mừng quư vị, quư vị thật sự
nhập Phật môn, là đệ tử Phật, đă
chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, chứng
Sơ Tín trong địa vị Thập Tín Bồ Tát của
Đại Thừa. Thập Tín là Tiểu Học trong
Phật giáo, Sơ Tín là lớp Một, giống như kinh
Kim Cang đă nói: “Vô ngă
tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô
thọ giả tướng”, người như vậy
mới học lớp Một. Cửa nẻo Phật pháp
cao lắm, dẫu quư vị nghiên cứu kinh điển
giỏi giang đến mấy, nói đến nỗi hoa
trời rơi loạn xạ, mà vẫn ngỡ thân này là ta,
quư vị chưa vào được cửa! Quư vị
học suốt đời vẫn là Phật học,
Phật học là ǵ? Tri thức, tức kiến thức
về Phật học và Phật giáo, vô dụng! Đức
Phật đ̣i hỏi chúng ta phải học ǵ? Học trí
huệ, chẳng phải là học tri thức. Trí huệ và
tri thức là hai chuyện [khác nhau], trí huệ là quư vị
học được th́ phải làm được,
thật sự thọ dụng. Một người
đạt đến vô ngă sẽ tự tại lắm!
Chư vị biết vô ngă sẽ
tự tại ở chỗ nào? Nếu quư vị chứng vô
ngă, sẽ vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn
chẳng ngă bệnh, thân tâm khỏe mạnh, đấy là
điều đầu tiên quư vị đạt
được. V́ sao quư vị bị bệnh? Ngă mới có
bệnh, không có Ngă, ai sanh bệnh? Bệnh ở chỗ nào?
Chẳng c̣n nữa. V́ thế, mỗi tế bào trên toàn thân
quư vị đều b́nh thường, khỏe mạnh. V́
sao có Ngă th́ bị bệnh? Có Ngă th́ có tự tư tự
lợi, có tham, sân, si, mạn. Quư vị thấy nhà Phật
gọi tham, sân, si là Tam Độc, đó là vi trùng gây bệnh
nguyên thủy nhất, trong tế bào của quư vị có
những thứ ấy. Trong tế bào có những vi trùng
độc tham, sân, si như thế, bên ngoài rất dễ
bị cảm nhiễm. Bên trong không có vi trùng, bên ngoài sẽ
chẳng bị lây bệnh, đạo lư là như vậy.
Đây là chỗ khác biệt giữa Trung Y và Tây Y, Tây Y không
biết đạo lư này, c̣n Trung Y th́ hiểu. Một
người mắc bệnh nghiêm trọng nhất, nếu
tâm thái tốt đẹp, thầy thuốc cho người
ấy dùng một chút thuốc, rất
dễ dàng khôi phục sức khỏe. V́ thế, quư vị
thấy hễ có Ngă Chấp sẽ kèm theo lắm nỗi
phiền năo ngần ấy. Từ phiền năo sẽ
sanh khởi ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh
vọng, ăn uống, ngủ nghỉ bên ngoài là ngoại
duyên, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là lục
trần, là tạp nhiễm. Đức Phật quy nạp
vô lượng vô biên tạp nhiễm thành mấy loại
lớn để thuận tiện dạy học. Nếu
chẳng tách ĺa những thứ ấy, tâm quư vị làm sao
có thể thanh tịnh cho được? C̣n có tiếng
tăm, lợi dưỡng, chúng
đều là giả, đem theo không được!
Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức
dạy chúng ta, hễ thứ ǵ mang theo không được
th́ chớ nên để trong ḷng. Có th́ tốt lắm, không
có cũng tốt lắm! Căn bản là chẳng
bận ḷng, tâm quư vị mới thanh tịnh.
“Phục
ư lợi dưỡng đẳng sự” (lại
đối với các sự như lợi dưỡng
v.v...), lợi dưỡng là nói tới ngũ dục,
lục trần, người hiện thời rất coi
trọng chúng, chúng là đối tượng tham muốn
của quư vị. Có những sự ấy, có thân thể th́
cần phải nuôi dưỡng nó, nhưng câu tiếp
đó quan trọng lắm: “Thường
sanh tri túc chi tâm” (thường sanh tâm biết
đủ). Thích Ca Mâu Ni Phật đă làm cho chúng ta thấy,
cả đời lăo nhân gia hiện diện trên thế gian,
Ngài chẳng xuất thân từ chốn bần cùng, mà
đến từ gia đ́nh phú quư, cha là quốc
vương, xuất thân từ vương tộc. Cả
đời Ngài sống theo nếp sống của một
vị Tăng khổ hạnh, thể hiện “tri túc
thường lạc” (biết đủ, thường vui).
Đă thế, lại c̣n bắt đầu [cuộc
sống khổ hạnh ấy] khi c̣n rất trẻ,
mười chín tuổi rời khỏi gia đ́nh, đi ra
ngoài cầu học, tầm sư phỏng đạo
mười hai năm. Thường nghĩ thế gian này có
quá nhiều chúng sanh khổ nạn, họ sống cuộc
đời như thế nào? Chúng ta hơi dư dả
đôi chút, [cuộc sống] đă tốt đẹp
hơn họ nhiều lắm, vẫn c̣n chưa biết
đủ hay sao? Không biết đủ là tội nghiệt
(mầm mống tội lỗi)! Kẻ
không biết đủ do muốn chiếm hữu, muốn
khống chế, bèn tạo tội nghiệp. Nếu
đối với chỗ này mà có tâm cảnh giác, có thể
giác ngộ, trong cuộc sống vật chất chúng ta có
thể làm được “tri túc thường lạc”, tâm
quư vị sẽ thanh tịnh. Đấy là “khởi tịnh ư tâm”, tâm quư vị ngày càng thanh
tịnh. Tâm thanh tịnh, thân sẽ thanh tịnh. Trong ư,
buông tự tư tự lợi xuống, buông tham, sân,
si, mạn xuống, những nhân tố gây bệnh trong
tế bào trên thân thể vật chất này chẳng c̣n
nữa, bị hóa giải, bèn khôi phục b́nh thường.
Thân tâm khỏe mạnh, vĩnh viễn chẳng ngă
bệnh, cuộc sống vui sướng lắm, cớ sao
chúng ta chẳng làm? Điều quan trọng là chẳng tham,
mở rộng ư nghĩa thành chẳng sân và chẳng si.
Chúng ta lại xem điều
thứ sáu tiếp đó: “Lục,
vô vong thất tâm. Niệm Phật chi nhân, cầu sanh
Tịnh Độ, thành Phật Chủng Trí, ư nhất
thiết thời, niệm niệm bất xả, thị
danh vô vong thất tâm” (Sáu, tâm chẳng quên mất.
Người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
thành Phật Chủng Trí, trong hết thảy các thời,
niệm niệm chẳng bỏ, đó là tâm chẳng quên
mất). Điều này có ư nghĩa chẳng phức
tạp, hoàn toàn quy nạp vào pháp môn Tịnh Độ.
Chẳng mất ư niệm, vô lượng pháp môn của Như
Lai chẳng mất, Ngài dạy chúng ta chẳng quên niệm
Phật, đúng như Đại Thế Chí Bồ Tát
đă nói: “Ức Phật,
niệm Phật, hiện tiền, đương lai,
tất định kiến Phật” (nhớ Phật,
niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất
định thấy Phật). Do đặc biệt trong
thời đại hiện tại, tai nạn rất nhiều,
khi nào tai nạn xảy ra, không ai biết. Tôi cũng nghe
một người nói, anh ta nghe một người thông
linh nói sẽ có rất nhiều tai nạn, rốt cuộc
hỏi người ấy khi nào tai nạn sẽ phát sanh?
Hỏi rất nhiều lượt, câu trả lời
vẫn là một câu: “Thiên cơ chẳng thể tiết
lộ”. Có hay không? Thật sự có, nhưng khi nào th́ không
ai biết. Lại c̣n gần như chẳng hề cảnh
cáo trước, hễ nói là xảy ra bèn xảy ra.
Hai tháng trước, vào
đầu tháng Sáu, tôi theo đoàn phỏng vấn tôn giáo Mă
Lai đến thăm La Mă, thăm Vatican, tiện dịp
viếng thăm khu Nam La Mă, lái xe đại khái gần ba
tiếng, thăm cổ thành Bàng Bối (Pompeii). Hai ngàn
năm trước, thành này bị tro núi lửa chôn vùi. Nghe
nói khi ấy, cư dân trong thành thị đó trốn
được một phần, c̣n lại chừng hơn
bốn ngàn người không chạy trốn
được, đều gặp nạn. Thời gian bao
lâu? Chỉ có mấy giây! Tôi đặc biệt đến
thăm thành ấy, mong hiểu rơ t́nh trạng thuở
ấy. V́ sao? Trong thế giới hiện tiền, rất
có thể là trạng huống như vậy xảy ra
tại bất cứ nơi nào, chúng ta phải chuẩn
bị tâm lư, nó xảy ra quá đột ngột, quá nhanh
chóng, giống như chúng ta coi phim 2012, trở tay không
kịp! Bất cứ ư niệm ǵ cũng chớ nên dấy
lên, trong khoảnh khắc ấy chỉ nên dấy lên ư
niệm niệm Phật, dẫu đều chết
sạch th́ mỗi cá nhân sẽ đi đến những
chỗ khác nhau!
V́ thế, nói tới lục
đạo luân hồi, mỗi cá nhân đến mỗi
chỗ khác nhau. Ai quyết định quư vị sẽ
đến chỗ nào? Thưa quư vị, chẳng có ai
quyết định! Lúc ấy, chẳng phải do thiên
thần quyết định, cũng chẳng do Diêm La
Vương quyết định, mà do ư niệm của chính
quư vị! Trong Phật pháp đă nói rất hay, ư niệm
cuối cùng của quư vị là ǵ? Nếu niệm cuối
cùng tâm tham, bất luận quư vị nghĩ đến tài
sản hay là người nhà, quyến thuộc, ư niệm
cuối cùng quư vị nghĩ đến là tham. Tâm tham
sẽ đọa trong ngạ quỷ đạo. Nếu
niệm cuối cùng là sân hận, có oán giận, oán khí, trong
tâm bất b́nh, sẽ là địa ngục đạo. Ư
niệm cuối cùng là hồ đồ, ngu si, dẫu
chẳng có vọng niệm ǵ, nhưng mơ mơ màng màng,
quá nửa sẽ vào súc sanh đạo. Niệm cuối cùng
là A Di Đà Phật, quư vị sanh sang thế giới
Cực Lạc. Niệm cuối cùng nghĩ về Chân Chúa,
quư vị sẽ sanh lên trời, niệm cuối cùng là
như thế đó. Khi thọ mạng đời này
chấm dứt, đời sau đến nơi nào là do
một niệm cuối cùng, đó là mấu chốt. Quư
vị hiểu rơ đạo lư này, trời già rất công bằng, chẳng có hậu
đăi kẻ này, xử bạc kẻ kia, hoàn toàn đúng
như cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Tự làm, tự chịu”. Chúng ta hiểu rơ
đạo lư này, hiểu rơ chân tướng sự thật,
như vậy th́ phải huấn luyện ngay trong
hiện tại, huấn luyện ǵ vậy? Huấn
luyện ư niệm này: Thời thời khắc khắc
đều có ư niệm A Di Đà Phật. Tai nạn xảy
đến chẳng sao cả, xảy đến th́ ta sang
thế giới Cực Lạc; khi nó chưa xảy ra, ta
tiếp tục niệm Phật, đấy là đúng, hoàn
toàn đúng. Chủ tể tương lai của chính ḿnh là
ư niệm của chính ḿnh. Chúng tôi có lư do để tin
tưởng, trong kinh điển của mỗi tôn giáo
đều nói như thế, những vị đại
thánh đại hiền chẳng lừa gạt
người khác.
Trong đoạn văn tự
này, câu “cầu sanh Tịnh
Độ” dễ hiểu, sanh về Tịnh Độ
để làm ǵ, v́ sao? Để thành Phật Chủng Trí;
nói cách khác, trong thế giới Cực Lạc chỉ có
một mục tiêu, chỉ có một phương
hướng, đó là chỉ cầu thành tựu Nhất
Thiết Chủng Trí của Phật. Câu này cũng có
nghĩa là đến thế giới Cực Lạc, ở
trong hội của A Di Đà Phật, cầu Phật
chỉ dạy chúng ta, giúp chúng ta chứng đắc minh tâm
kiến tánh, đại triệt đại ngộ, “thành Phật Chủng Trí” chính
là ư nghĩa này, trở về tự tánh. Trở về
tự tánh, trí huệ viên măn trong tự tánh là Nhất
Thiết Chủng Trí. Trong Phật pháp, danh từ này bao
gồm hai ư nghĩa, hai thuật ngữ, thứ nhất là
Nhất Thiết Trí, thứ hai là Đạo Chủng Trí.
Nhất Thiết Trí cũng là Căn Bản Trí, liễu
giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, nhà
Phật thường nói: “Vạn
pháp đều không”, kinh Bát Nhă dạy: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo
không, trọn chẳng thể được”. Câu này
thoạt nh́n dường như chẳng sâu, trên thực
tế rất ư là sâu. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt
đời giáo học, giảng kinh Bát Nhă suốt hai
mươi hai năm, gần như chiếm một nửa
thời gian giáo học của Ngài để giảng
đạo lư này. Hai mươi hai năm Bát Nhă
được tổng kết bằng một câu này,
một câu nói này gồm trọn hai mươi hai năm, quư
vị biết nó rất sâu, rất rộng. Hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian không có pháp
nào ngoại lệ, “vô sở
hữu, rốt ráo không, trọn chẳng thể
được”.
Hết sức khó có, hiện
thời, các nhà khoa học Lượng Tử Lực
Học đă dần dần chứng thực câu nói này.
Lời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng là lời thật,
chẳng giả, thật sự thấu triệt rơ ràng th́
quư vị mới buông xuống hết thảy. Hiểu rơ
chân tướng sự thật, chân tướng sự
thật ấy là ǵ? Toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là
một Thể, không phải là “một nhà”, một nhà
vẫn chưa phải là một Thể. Đức
Phật bảo chúng ta, quan hệ giữa khắp pháp
giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể,
điều này được gọi là luân lư trong nhà
Phật. Do vậy, ḷng từ bi của Phật không có
điều kiện, đối với hết thảy
mọi người, hết thảy sự vật, vạn
vật trong trời đất, tâm từ bi b́nh
đẳng, tâm từ bi thanh tịnh. Người hiện
thời gọi từ bi là tâm yêu thương. [Từ bi] là
tâm yêu thương b́nh đẳng, chẳng có sai khác. V́ sao?
Một Thể, người ấy biết là [vạn pháp và
chính ḿnh là] một Thể, đó là Nhất Thiết Trí.
Đạo Chủng Trí là chuyện như thế nào? Là
mỗi chuyện, mỗi vật, phát sanh như thế nào,
v́ sao nó phát sanh, đối với các đạo lư sai khác đó,
người ấy đều hiểu rơ, chẳng có ǵ không
hiểu rơ, biết sự biến hóa phức tạp trong
vũ trụ đều là bản năng trong tự tánh.
Hai thứ trí huệ ấy đều chứng đắc,
đều khôi phục, th́ mới thật sự đáng
gọi là “không ǵ chẳng
biết, không ǵ chẳng thể”. “Không ǵ chẳng biết” là trí huệ Bát Nhă
vốn sẵn có trong tự tánh, “không
ǵ chẳng thể” là vô lượng đức năng
vốn sẵn có trong tự tánh, hiển thị ra ngoài thành
tướng hảo, đó gọi là y báo và chánh báo trang
nghiêm.
Đối với người
mới học Phật mà nói, v́ sao phải học Phật?
Nhằm chứng đắc, khôi phục trí huệ,
đức năng, và tướng hảo trong tự tánh, v́
những điều này. Có thể làm được hay
không? Có thể. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát
dạy: “Bổn Giác vốn có,
bất giác vốn không”, hai câu ấy dạy chúng ta
phải tin tưởng chắc chắn, đức
Phật nói trí huệ và đức tướng sẵn có
trong tự tánh của chúng ta. Nếu là vốn có, đương
nhiên có thể khôi phục. Những thứ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước vốn không
có, trong tự tánh chẳng có, hiện tại dường
như có, nhưng tự tánh không có, đương nhiên có
thể buông chúng xuống. Nói theo phía người b́nh phàm
chúng ta, đương nhiên là có thể đoạn trừ
chúng. Học Phật là học ǵ? Học điều này:
Trở về tự tánh mà thôi. Trở về tự tánh khó
khăn, quư vị đọc kinh thông suốt, hiểu rơ,
đó là giải ngộ. Quư vị đă hiểu rơ, nhưng
chưa thực hiện, chưa làm được. Làm
được là chứng ngộ, làm được
mới hữu dụng, thật sự hữu dụng. Ta
hiểu rơ, liễu giải rồi, vẫn chưa làm
được. Muốn làm, nhưng chẳng đơn
giản như vậy, làm thế nào để buông tập
khí vô thỉ phiền năo xuống? Tám vạn bốn ngàn pháp
môn như trong Đại Thừa đă nói chính là tám vạn
bốn ngàn phương pháp khác nhau giúp quư vị buông xuống,
có vô lượng pháp môn, giáo pháp Đại Thừa dạy
chúng ta như thế. Trong các phương pháp nhiều ngần
ấy, quư vị chỉ cần dùng một phương pháp
là được, không cần phải t́m thật nhiều
thứ, nhưng phương pháp [được chọn]
ấy phải là phương pháp mà chúng ta suy gẫm
thấy chính ḿnh có thể làm được. Phương
pháp có khó và dễ, căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau; v́
thế, đức Phật cho phép chúng ta chọn lựa
tự do. “Pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp”, lời ấy
rất hay! Trong các pháp môn, chẳng có pháp môn nào ưu
việt, không hề có, đều là b́nh đẳng! Ưu
việt tùy thuộc bản thân quư vị, căn tánh của
quư vị sai khác, phương pháp nào dễ sử dụng
đối với chính ḿnh th́ chúng ta dùng phương pháp
đó. Đức Phật đặc biệt giới
thiệu với chúng ta một pháp môn, tức là pháp Niệm
Phật, pháp môn này thuận tiện, dễ dàng, ổn
thỏa, thích đáng, rất nhanh chóng, thật sự
nương theo phương pháp này để tu học,
gần như Thích Ca Mâu Ni Phật có thể đảm
bảo chúng ta sẽ thành công trong một đời này;
đó là người niệm Phật. V́ vậy, trong
hết thảy các thời niệm niệm chẳng bỏ ư
niệm cầu sanh Tịnh Độ và một câu Phật
hiệu A Di Đà Phật, câu ấy rất quan trọng,
giúp chúng ta trở về tự tánh. Đây là dạy chúng ta nhớ
Phật, niệm Phật, trong tâm thường nghĩ
đến Phật, đặc biệt phải nghĩ tới
Phật giáo hóa, độ thoát chúng sanh, công đức vô
lượng vô biên. Phật chẳng có tâm riêng tư, v́ sao?
Ngài biết hết thảy chúng sanh trong khắp pháp
giới hư không giới và Ngài là một Thể, làm sao
Ngài có tâm riêng tư cho được? Niệm niệm v́
chúng sanh chính là niệm niệm v́ chính ḿnh, niệm niệm
giúp chúng sanh chính là niệm niệm giúp chính ḿnh, lư này
rất ư là sâu. Do chư Phật, Bồ Tát không vị
nào chẳng bỏ ḿnh v́ người, nên các Ngài mới có
thể thật sự quay đầu, thật sự buông
xuống, thật sự đạt đến thành tựu
viên măn.
Tiếp theo đó là điều
thứ bảy: “Vô hạ
liệt tâm. Niệm Phật chi nhân, thường hành b́nh
đẳng chi tâm, ư chư chúng sanh, tôn trọng cung kính,
bất sanh khinh mạn, thị danh vô hạ liệt tâm”
(Tâm chẳng kém hèn: Người niệm Phật tâm
thường hành b́nh đẳng, đối với các chúng
sanh tôn trọng, cung kính, chẳng sanh ḷng khinh mạn, đó
là tâm chẳng kém hèn). Trong b́nh đẳng mới có sự
đối đăi ḥa thuận. Phật pháp và cổ thánh tiên
hiền Trung Quốc có chung quan niệm, giáo hóa chúng sanh th́
nói quả trước, nói nhân sau. V́ sao? Chúng sanh b́nh phàm
rất thực dụng, họ phải thấy kết
quả trước, hiểu rơ rồi, đă thấy
tốt xấu rồi mới giảng cái nhân cho họ,
họ sẽ tin tưởng, tiếp nhận dễ dàng.
B́nh đẳng là nhân, ḥa hài là quả, người Hoa
gọi là ḥa b́nh, ḥa là quả, b́nh là nhân. Người
Nhật Bản học theo văn hóa Trung Quốc, nhưng
người Hoa nói “ḥa b́nh”, c̣n người Nhật nói là
“b́nh ḥa”, đúng hay không? Cũng đúng, “b́nh ḥa” là nói nhân
trước, nói quả sau. Có b́nh đẳng rồi
mới có ḥa hài! V́ thế, ngày nay chúng ta muốn nói
đến thế giới ḥa b́nh, thế giới ḥa hài,
nếu thế giới này chẳng b́nh đẳng th́ ḥa hài
chỉ là khẩu hiệu, không thực hiện được!
Xă hội này là xă hội rất bất b́nh đẳng, cho
nên nơi nào cũng nẩy sanh xung đột, hóa giải
xung đột bằng cách nào? Đối đăi b́nh
đẳng, ḥa hài sẽ xuất hiện, có thể hóa
giải xung đột. Lời này nói dễ dàng, nhưng
thực hiện chẳng đơn giản. Chúng ta phải
suy nghĩ, nghiêm túc tư duy, cổ thánh tiên hiền làm
như thế nào? Dùng phương pháp ǵ để làm? Các
Ngài dùng giáo dục. Mục đích của giáo dục là
ở chỗ nào? Mục đích của giáo dục là giúp
đại chúng giác ngộ. Đại chúng thật sự
giác ngộ, thật sự hiểu rơ, khắp pháp giới
hư không giới và ta là một Thể, tâm b́nh đẳng
sẽ hiện tiền. Quư vị thấy các nhà Pháp
Tướng Duy Thức chuyển Mạt Na Thức thành B́nh
Đẳng Tánh Trí, ḥa hài bèn xuất hiện. Mạt Na là Ư
Thức, đă mê th́ gọi là Ư Thức, là Mạt Na Thức.
Đă giác ngộ, nó chính là B́nh Đẳng Tánh, tức B́nh
Đẳng Tánh Trí trong tự tánh. Muốn giúp cho con
người chuyển thức thành trí, trừ giáo dục
ra, không có phương cách nào khác. Trong cách nh́n theo Phật
pháp của chúng tôi, tổ tông của mỗi dân tộc trên
thế giới đều là Phật, Bồ Tát thị
hiện, nói theo tôn giáo th́ họ đều là chân thần
thị hiện. Nói như vậy hợp lư, mỗi vị
đều là bậc minh tâm kiến tánh. V́ vậy, họ
lưu lại giáo huấn tương ứng với tánh
đức viên măn, ngôn ngữ, trí huệ, lời bàn
xứng tánh đều từ tự tánh lưu lộ,
chẳng phải do sáng tạo, chẳng phải là phát minh.
Bởi lẽ, “con người
có cùng cái tâm này, tâm cùng một lư này”.
Tôi bàn
với giáo sư Mạch Đại Duy (David McMullen) của
khoa Hán học trường đại học Kiếm
Kiều (Cambridge) về phương pháp và quan điểm
giáo học, những thứ tốt đẹp của cổ
nhân Trung Quốc đă truyền lại mấy ngàn năm,
chẳng ai thay đổi được. Ông ta hỏi tôi:
“Mấy câu nào vậy?” Tôi bảo: “Đó là tám câu
đầu trong Tam Tự Kinh”. Ông ta có thể đọc
thuộc ḷng Tam Tự Kinh. Là một nhà Hán Học, không
biết ông ta đă đọc thuộc ḷng bao nhiêu lượt,
nhưng chẳng thấu hiểu. Quan điểm giáo
học đầu tiên là phải thừa nhận “con người tánh vốn lành”,
giống như trong sự giáo dục của Phật
Đà. Quư vị thấy quan điểm trung tâm trong nền
giáo dục của đức Phật là “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, ư
nghĩa hoàn toàn giống với “nhân
chi sơ, tánh bổn thiện” (người thoạt
đầu, tánh vốn lành) [trong Tam Tự Kinh]. V́ thế,
quư vị làm công tác giáo dục, giáo học, đầu tiên
quư vị phải khẳng định con người tánh
vốn lành. Mục đích giáo dục là đâu? Mục
đích chính là phải giúp hết thảy chúng sanh trở
về bổn thiện, trong Đại Thừa Phật
pháp, bổn thiện là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh, đó mới là bổn
thiện, bổn thiện chính là thành Phật. V́ sao phải
dạy? Câu tiếp đó đă nói rơ ràng: “Tánh tương cận, tập tương viễn”
(Tánh th́ giống nhau, do được huân tập mà trở
thành khác nhau). Tánh vốn lành, giống nhau, hoàn toàn giống
nhau, nhưng do huân tập nên ngày càng cách xa bổn tánh.
Tập tánh là ǵ? Thói quen, bổn tánh vốn lành, tập tánh
bất thiện. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Cận châu tắc xích, cận mặc tắc
hắc” (Gần son th́ đỏ, gần mực th́
đen); một đứa bé hết sức dễ bị
cảnh giới bên ngoài cảm nhiễm, nó ở cùng
người tốt sẽ biến thành người
tốt, ở cùng kẻ ác sẽ biến thành xấu xa,
đó gọi là tập tánh. Mục đích của giáo
dục là làm sao giúp cho con người từ tập tánh
bất thiện quay về bổn thiện, đó là mục
đích của giáo dục. V́ vậy, quan điểm giáo
dục được phát triển từ chỗ này. “Cẩu bất giáo, tánh năi thiên”
(nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi).
Chỉ cần dạy cho con người tốt
đẹp, chuyện bất hảo nào trong xă hội
cũng chẳng phát sanh, bất cứ tai nạn nào trên
địa cầu cũng chẳng nẩy sanh. Do vậy,
người Trung Quốc hiểu giáo dục, có trí huệ
về phương diện giáo dục, có phương pháp
và kinh nghiệm giáo dục, nên giáo dục có hiệu
quả. Vô cùng đáng tiếc là sau khi nhà Măn Thanh vong
quốc một thế kỷ, trong một trăm năm
ấy, chúng ta đă coi nhẹ, khinh rẻ những giáo
huấn của tổ tông, xă hội mới xuất hiện
các phiền phức nhiều ngần ấy, núi, sông,
đại địa phát sanh các tai biến nhiều
dường ấy. Truy tới căn bản [th́ ra] giáo
dục có vấn đề!
“Giáo
chi đạo, quư dĩ chuyên” (đường lối
giáo dục quư ở chỗ chuyên nhất), chúng ta muốn
học tốt đẹp, muốn học theo bậc thánh,
muốn học theo người hiền, có thể làm
được hay không? Chỉ cần quư vị kiên tŕ,
ngăn ngừa hết thảy nhiễm ô, như đă nói
trong phần “khởi tịnh ư
tâm” ở trên th́ sẽ thực hiện được.
Vâng giữ tám câu giáo huấn của tổ tông, ai nấy
đều có thể trở thành thánh nhân, hiền nhân.
Chẳng gặp thiện tri thức chân chánh hoặc
thầy tốt, có thể lấy cổ nhân làm thầy,
trước tác của cổ nhân hăy c̣n, hăy khéo đọc,
học tập, y giáo phụng hành, có thể thực
hiện. Tại Trung Quốc, người nêu gương
đầu tiên là Mạnh Tử, Mạnh Tử học theo
Khổng Tử. Khổng Tử đă chẳng c̣n, qua
đời rồi, nhưng Thi, Thư, Lễ, Nhạc do
Khổng Tử san định hăy c̣n, những văn tự
do Khổng Tử biên tập giáo huấn của cổ thánh
tiên hiền hăy c̣n. Mạnh Tử có được
những tác phẩm ấy bèn nghiêm túc học tập,
chỗ nào không hiểu rơ bèn thỉnh giáo các đệ
tử của Khổng Tử, Ngài học thành công, học
giống như Khổng Tử, vượt trỗi các
đại đệ tử của Khổng Tử thuở
ấy. V́ thế, hiện thời nhắc tới Khổng
Mạnh, chẳng nói Khổng Tăng, tuy Tăng Tử
cũng khá lắm, Hữu Tử cũng khá lắm, nhưng
chẳng nhắc tới, chỉ nhắc tới Khổng
Mạnh. Quư vị thấy vị tư thục đệ tử
này chưa hề gặp Khổng Tử, chiếu theo
những trước tác c̣n lưu lại của Khổng
Tử để học tập, nghiễm nhiên vượt
trỗi những học tṛ do chính Khổng Tử chỉ
dạy thời ấy, nêu gương tốt nhất cho
chúng ta. Sách của Khổng Tử c̣n đó, Tứ Thư,
Ngũ Kinh, nếu chúng ta chiếu theo đó, nghiêm túc
học tập, bỏ ra mười năm công phu cũng có
thể làm được như Mạnh Tử, chẳng
phải là làm không được, v́ sao không làm? Thời gian
mười năm không dài, chỉ cần thật sự bỏ
mười năm công phu, cổ nhân nói rất hay: “Thập tải hàn song, nhất
cử thành danh” (mười năm quạnh quẽ
miệt mài, một mai thi đậu công danh rỡ ràng).
Trong Phật pháp, Ngẫu Ích đại sư đă nêu
gương cho chúng ta. Ngẫu Ích đại
sư ngưỡng mộ ngài Liên Tŕ, học theo Liên Tŕ
đại sư. Liên Tŕ đại sư đă văng sanh,
chẳng c̣n tại thế, nhưng trước tác của
Liên Tŕ đại sư c̣n đó, học tṛ của Ngài là
Thành Thời tu chỉnh, khắc ván lưu thông. Ngẫu Ích đại sư có được
những bộ sách của Liên Tŕ đại sư bèn nghiêm
túc học tập. Liên Tŕ là tổ sư đời thứ
tám của Tịnh Tông, Ngẫu Ích trở thành
tổ sư đời thứ chín. V́ thế, có thầy và có
hoàn cảnh học tập là đại phước báo!
Điều ấy có thể gặp, chứ chẳng
thể cầu, không có hoàn cảnh ấy vẫn có thể
học thành công, đó là Mạnh Tử và Ngẫu Ích
đại sư.
Trong hiện tại, chúng ta
vừa phát hiện một người, tại miền
Đông Bắc Trung Quốc có cư sĩ Lưu Tố Vân,
dùng thời gian mười năm để học một
bộ kinh Vô Lượng Thọ, học thành công. Hiện
thời, bà ta giảng kinh Vô Lượng Thọ không
cần dùng kinh bổn, giảng chỗ nào cũng thấm
đẫm đạo lư, pháp duyên thù thắng, đến
nơi nào cũng được người ta hoan nghênh.
Mười năm, một quyển sách, bà ta học như
thế nào? Bà ta có một bộ đĩa CD, thuở
ấy, bà ta đă năm mươi lăm tuổi! Năm
mươi lăm tuổi mới bắt đầu, khi
đó, bà có được một bộ đĩa CD kinh Vô
Lượng Thọ, sáu mươi giờ. Chúng tôi không
biết bà ta, tới năm nay tôi mới gặp mặt bà,
bà ta đă thành công, mười năm bèn thành công. Bà ta
kể mỗi ngày nghe một đĩa CD, tức là một
giờ, đối với một giờ giảng bà ta nghe
mười lần. V́ bà ta nghe tôi giảng kinh có nói một
câu như sau: “Thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”, bà ta ghi nhớ câu ấy,
thật sự làm theo. Thâm nhập một
môn, tức là nghe một bộ kinh đến cùng, chẳng
có ư niệm thứ hai, mỗi ngày nghe mười lần
[đĩa CD ghi âm] một giờ giảng. Ngày hôm sau
đổi sang đĩa kế tiếp, cũng nghe
mười lần. Nghe sáu mươi ngày xong, ngày thứ
sáu mươi mốt quay lại nghe từ đầu. Nghe
như vậy mười năm, không chỉ toàn bộ kinh
đều thuộc, mà mỗi chữ tôi nói bà ta đều
nhớ nằm ḷng. Một kinh thông, hết thảy các kinh
thông, hiện thời bất cứ kinh giáo Đại
Thừa nào đưa đến trước mặt, bà ta
chẳng bị mảy may chướng ngại ǵ! Đây là
một tấm gương rất tốt đẹp.
Năm nay bà đă sáu mươi lăm tuổi, mười
năm, thành công rồi. Tôi giảng kinh thường
nhắc tới bà ta, bà ta đă nổi tiếng tại
Đại Lục, khắp nơi mời bà ta giảng kinh,
đó là một nhân vật giống như Mạnh Tử và
Ngẫu Ích đại sư. Có người hỏi bà ta
học như thế nào mà thành công? Bà ta bảo bí quyết
gồm sáu chữ: Thứ nhất là “lăo thật” (thật
thà), thứ hai là “thính thoại” (nghe lời), thứ ba là
“chân cán” (thật sự làm). Thâm nhập một môn, huân tu
lâu dài, bà ta thật sự làm! Mười năm bèn thành
công. Chúng ta thử nghĩ xem, chẳng phải là chúng ta
không thể thành tựu, mà v́ đă lăng phí thời gian,
người ta mười năm dốc sức một
bộ kinh, c̣n chúng ta suốt ngày từ sáng đến
tối suy nghĩ loạn xạ trong mười năm,
uổng phí mười năm!
Sau đấy, chúng ta suy nghĩ
thấy tổ sư đại đức xưa kia có
phước báo, quư vị thấy bao nhiêu người thành
tựu y chỉ một vị thầy, ở trên núi vài
chục năm chẳng hạ sơn. Hôm nay, pháp sư Trung
Tây Tùy Công (Nakanishi Zuikou) của Nhật Bản đến
thăm chúng ta. Trong quá khứ, tôi đă đi thăm
Nhật Bản sáu lần, có một lần tôi đến
thăm núi Tỷ Duệ (Hiei-zan) của Nhật Bản. Có
người bảo tôi, các tổ sư khai sơn của
mười ba tông phái Phật giáo tại Nhật Bản[3]
đều tu hành trên núi này. Tôi lên núi đặc biệt
hỏi ḍ xem thời gian tu hành của các vị tổ
sư đại đức trên núi ấy bao lâu. Lăo ḥa
thượng trên núi bảo tôi, vị lâu nhất hơn ba
mươi năm không hạ sơn, vị ít nhất là
mười bốn năm, nên các Ngài mới có thành tựu
như vậy, trở thành nhất đại tổ sư.
Pháp duyên thù thắng chưa phải là chuyện tốt,
khiến cho quư vị suốt ngày từ sáng đến
tối đi khắp nơi, tâm bị rối nháo nhào,
thời gian cũng rối beng, chẳng thể thành
tựu! Người thành tựu an định một
chỗ, như như bất động. Tôi là một
kẻ chẳng có phước báo, chẳng có cách nào,
chẳng có đạo tràng, nên nơi nào hữu duyên bèn
đến nơi đó, nhưng tôi giữ vững một
nguyên tắc, tôi đến bất cứ nơi nào cũng đều
là để giảng kinh, nơi không thể giảng kinh
tôi sẽ không đến. Do vậy, tôi có thể duy tŕ
vững vàng cho đến hiện tại, suốt năm
mươi hai năm giảng kinh không gián đoạn nên
mới có một chút thành tựu. Nếu tôi có phước
báo như các vị tổ sư đại đức
xưa kia, có một ngọn núi, năm mươi hai năm
chẳng hạ sơn, đến nay tôi sẽ tuyệt
lắm, khá vô cùng! V́ thế, các đồng học trẻ
tuổi phải hiểu rơ đạo lư này, ai thành tựu
quư vị? Chính ḿnh thành tựu chính ḿnh. Xưa nay, trong ngoài
nước, hễ là người có thành tựu, tuyệt
đối chẳng phải do được thầy
ở bên cạnh thường chỉ điểm, không có,
đều do chính ḿnh thành tựu. Nắm vững những
nguyên tắc và nguyên lư do thầy chỉ dạy, thật
sự phát tâm dũng mănh, tâm tinh tấn, giữ chí
thường hằng, không ai chẳng thành tựu! Cư
sĩ Lưu Tố Vân là một tấm gương vô cùng
tốt, người ta năm mươi lăm tuổi
mới tiếp xúc, các vị c̣n chưa tới năm
mươi lăm tuổi, phải học theo bà ta,
mười năm trở thành đại pháp sư. Nếu
bà ta xuống tóc, xuất gia, lên ṭa, giảng kinh bèn là
đại sư. Do vậy, chuyển Mạt Na Thức
thành B́nh Đẳng Tánh, điều này vô cùng trọng
yếu. Thật sự chuyển được, nhất
định sẽ có biểu hiện như thế này: Tôn
trọng cung kính các chúng sanh, chẳng sanh ḷng khinh mạn,
đối với người cũng thế, mà
đối với chính ḿnh cũng thế, ta và người
b́nh đẳng, chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Quư
vị đối với người, đối với
cây cối, hoa, cỏ, đối với núi, sông,
đại địa, đối với hết thảy
chúng sanh, quyết định chẳng có tâm khi dễ,
chẳng có thái độ ngạo mạn, thể hiện
sự tôn trọng, cung kính, chắc chắn là như
vậy. Đấy là lễ kính, chẳng sân.
Tiếp đó, điều
thứ tám là “sanh quyết
định tâm. Niệm Phật chi nhân, bất trước
thế gian ngôn luận, ư Vô Thượng Bồ
Đề chi đạo, thâm sanh chánh tín, tất cánh bất
hoặc, thị danh sanh quyết định tâm” (Sanh tâm
quyết định: Người niệm Phật chẳng
đắm chấp ngôn luận thế gian, đối
với đạo Vô Thượng Bồ Đề, sanh ḷng
chánh tín sâu xa, rốt ráo chẳng mê hoặc, đó là sanh tâm
quyết định). Điều này là “chẳng si”. Quư
vị thấy đó, không tham, không sân, không si. Những ngôn
luận thế gian, đặc biệt trong hiện
thời, chánh luận ngày càng ít ỏi, lệch lạc, tà
vạy ngày càng nhiều! Các đồng học theo tôi lâu dài
cũng biết tôi có một thói quen, tôi học Phật
năm mươi chín năm, mười năm đầu,
có khi xem nhật báo, tạp chí, TV, tôi buông bỏ những
thứ ấy gần năm mươi năm rồi,
chẳng xem TV, chẳng đọc nhật báo, tôi nhất
loạt cự tuyệt những tạp chí tin tức, v́
sao? Nhiễm ô. Cũng có đồng học thường
gởi sách cho tôi xem, tôi cầm lấy, trước hết
xem trang bản quyền, phía sau in: “Sở hữu bản quyền, in lại nhất
định truy cứu trách nhiệm”, tôi sẽ không
đọc sách ấy, bảo người
ta đem đi. Người ta hỏi v́ sao ư? [Tôi
trả lời: Tác giả] tâm lượng quá nhỏ. Tâm
lượng quá nhỏ th́ có thể viết được
thứ tốt đẹp ǵ? Quư vị thấy khi cổ nhân
Trung Quốc ra sách, chẳng phải vậy! “Hoan nghênh tái bản, công
đức vô lượng”, chẳng có sở hữu
bản quyền. Một người tâm lượng to
lớn, tâm lượng lớn, phước sẽ lớn,
trí huệ cũng lớn; tâm lượng nhỏ bé,
phước cũng bé tí, trí huệ cũng nhỏ nhoi,
vậy th́ cần ǵ phải lăng phí thời gian của
chúng ta? Thời gian của chúng ta rất hữu hạn,
chẳng muốn lăng phí vào đó; nhưng nếu là ngôn
luận của thánh hiền thế gian th́ có thể xem, có
thể nghiên cứu. Tuy vậy, hoàn cảnh hiện tại
đă khác, tai nạn nhiều lắm, khiến cho chúng ta
sanh khởi tâm cảnh giác cao độ, chúng ta ứng phó
ra sao, đấy là chuyện cấp thiết trước
mắt, chỉ có đem toàn bộ thời gian, tinh lực
dùng vào Phật pháp.
Kinh luận Phật pháp cũng
nhiều vô cùng, thưa quư vị, kinh có thể cứu
nạn gấp, thật sự có thể giúp chúng ta giải
quyết nguy cơ trước mắt chính là một bộ
kinh Vô Lượng Thọ, thật sự dùng
được! Nhất là bản hội tập của lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư. Hiện thời, trong chín phiên
bản tiếng Hán khác nhau của kinh Vô Lượng
Thọ, bản của Hạ Liên Cư là bản tốt
nhất trong chín bản khác nhau. Chúng ta có duyên gặp
gỡ, đó là phước báo nhiều lắm! Do vậy,
năm nay, tôi quyết định tạm ngừng
[giảng] kinh Hoa Nghiêm một năm để giảng
bộ kinh này, mọi người chúng ta cùng nhau học
tập kỹ càng. Tôi cũng giảng [kinh này] giống
như giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng cặn kẽ bản
chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
cũng là cảm ơn một phen tri giao giữa chúng tôi lúc
tuổi già. Cụ viết bản chú giải này, dụng
tâm rất khổ sở. Đă thế, thân đang mang
bệnh nặng, vẫn hoàn thành tác phẩm này. Tôi biết
rơ, vô cùng kính phục, lần này, chúng tôi chia sẻ tâm
đắc và cảm tưởng do đọc bộ kinh
này cùng mọi người, tạo thành Diễn Nghĩa. V́
vậy, lần giảng kinh này có tựa đề là
Tịnh Độ Đại Kinh Giải, Đại Kinh do
cụ Hạ hội tập, Giải do lăo cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ viết, cuối cùng, chúng tôi đem phần
tâm đắc khi học tập tạo thành Diễn
Nghĩa, giúp cho các Tịnh Tông đồng học hiện
tiền và mai sau có một bản hoàn thiện ḥng có thể
tu học, mang ư nghĩa rất lớn. Đại biểu
cho đạo Vô Thượng Bồ Đề, [cứu
độ chúng sanh nghiệp khổ] trong chín ngàn năm
thời Mạt Pháp là cuốn kinh này và bản chú giải
này. Sanh ḷng chánh tín sâu xa, rốt ráo chẳng mê hoặc.
Đó là “sanh quyết
định tâm”.
Thứ chín, “vô tạp nhiễm tâm. Niệm Phật chi nhân, tu
tập công hạnh, chủng chư thiện căn, tâm
thường viễn ly nhất thiết tạp nhiễm
phiền năo, thị danh vô tạp nhiễm tâm” (Tâm
chẳng tạp nhiễm: Người niệm Phật tu
tập công hạnh, gieo các thiện căn, tâm thường
xa ĺa hết thảy phiền năo tạp nhiễm, đó là
tâm không tạp nhiễm). Học điều ǵ cũng
phải chuyên, chớ nên tạp, kỵ nhất là xen
tạp. Nhưng trường học hiện thời là
tạp nhiễm, chương tŕnh học trong nhà
trường hiện thời, nói chung từ nhà trẻ
đến lớp tiến sĩ đều là học
tập nhiều môn, lại c̣n sắp xếp các môn học
xen kẽ. Chẳng hạn như Tiểu Học, giờ
thứ nhất học Ngữ Văn,
giờ thứ hai học Toán. Khái niệm ngữ văn c̣n
chưa hấp thụ đă thay đổi đề
mục. Đó là tạp, là nhiễm. Trung Quốc vào
thời cổ kỵ nhất cách dạy học ấy.
Cổ nhân Trung Quốc tuân thủ nguyên tắc của
tổ tông: “Giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên”, tức là “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài”, một môn chưa
học nhuần nhuyễn, quyết định chẳng
thể học môn thứ hai. Xưa kia, tôi theo lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam học kinh giáo, thầy Lư áp
dụng cách dạy học trong trường tư thục,
tức là học từng môn một, quư vị không thể
đồng thời học hai môn. Thầy nói rơ ràng với
quư vị, học đồng thời hai môn th́ một môn
quư vị cũng chẳng học được! V́ sao? Phân
tâm. Thời gian cũng bị chia vụn, tinh thần cũng
bị phân tán, làm sao học tốt cho được?
Chỉ cho phép học một môn, học xong một môn
mới có thể học môn thứ hai. Học từng môn
một, phương pháp này có thể sử dụng trong nhà
trường. Tôi tin tưởng dùng trong nhà trường,
thành tích của học tṛ nhất định sẽ vô cùng
tốt đẹp, v́ sao? Tập trung tinh thần. Chẳng
hạn như Tiểu Học có bốn môn chủ yếu, Ngữ
Văn, Toán, hoặc là Sử, Địa, ngoài ra c̣n có Ngoại
Ngữ. Các môn học chánh yếu không sắp xếp xen
kẽ. Ngữ Văn là cơ sở của tất cả
khoa học, trọng yếu nhất, dành thời gian
nhiều một chút, sáu năm Tiểu Học dùng thời
gian ba năm để học Ngữ Văn, không có các môn
khác, chuyên học Ngữ Văn. Toán th́ dành ra một năm
để chuyên môn học Toán. Quư vị thấy học theo
kiểu này, trong cặp chỉ có một quyển sách,
rất nhẹ nhàng, thong dong, đầu óc chỉ nghĩ
tới một chuyện, chẳng nghĩ tới chuyện
thứ hai, chắc chắn tinh thần tốt đẹp,
thân thể tốt đẹp, thành tích học tập
cũng tốt đẹp. Đấy chính là như cách nói
của tổ tông Trung Quốc: “Giáo
chi đạo, quư dĩ chuyên”, chớ nên xen tạp. Khi
đă xen tạp, sẽ rối loạn.
Tổ tiên có trí huệ,
người hiện thời xem thường tổ tông, nên
họ bất hiếu với cha mẹ, ngỡ con người
hiện thời rất thông minh, luôn vượt trội
tổ tông. Hiện thời con cái đều nghĩ ḿnh
vượt trội cha mẹ rất nhiều, cha mẹ quá
cổ lỗ, trở thành đồ cổ rồi, vô
dụng, chẳng theo kịp thời đại, ngay cả
computer cũng chẳng biết dùng, xem thường cha
mẹ. Không biết trí huệ của cha mẹ và tổ
tông có thể giải quyết vấn đề, những
quan niệm hiện thời đă đem lại tai nạn.
Tôi cũng thảo luận vấn đề này với
nhiều người làm công tác giáo dục, kể cả
một số giáo sư đại học và các hiệu
trưởng, họ nghe xong cũng cảm thấy tôi
rất có lư, có thể làm thí nghiệm. Nếu có
trường học nào chọn phương pháp này
để làm thí nghiệm, thí nghiệm thành công sẽ là
công đức vô lượng, có thể giúp khá nhiều
trường học thay đổi phương pháp dạy
học, thật sự có thể cứu vớt thế
hệ kế tiếp. Chúng ta phải tôn trọng, cung kính
tổ tông, những thứ của tổ tông là chân
thật, thật tốt đẹp! Chẳng xảy ra
chuyện ǵ! Vứt bỏ tổ tông, phiền phức ǵ
cũng đưa đến. Điều này cũng
thuộc loại “chẳng si”. Hai điều tám và chín
đều là “chẳng si”.
Điều cuối cùng là
niệm Phật, “khởi tùy
niệm tâm. Niệm Phật chi nhân, tuy quán Như Lai
tướng hảo, nhi bất sanh ái trước chi tâm;
ư vô niệm trung, thường niệm bỉ Phật,
thị danh khởi tùy niệm tâm” (Khởi tùy niệm
tâm: Người niệm Phật tuy quán tướng hảo
của Như Lai, nhưng chẳng sanh tâm yêu đắm,
trong vô niệm thường niệm đức Phật
ấy, đó là khởi tùy niệm tâm). Quán tướng
hảo của Phật Như Lai, [quán] tướng hảo
của Như Lai là [quán những tướng hảo
nơi] Báo Thân Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện
trên thế gian, đấy là Ứng Thân, chúng sanh có cảm,
Ngài bèn ứng. Ứng Thân Phật thị hiện ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo,
cũng chính là v́ người thế gian đă gọi những
tướng đó là tướng tốt theo thuật xem
tướng, Thích Ca Mâu Ni Phật thảy đều có
đầy đủ. Kinh dạy: Trong thế giới
Cực Lạc, quư vị thấy thân A Di Đà Phật có vô
lượng tướng, mỗi tướng có vô
lượng hảo. Trên thế gian, đức Phật dùng
tướng hảo để tiếp dẫn chúng sanh, chúng
sanh ưa chuộng tướng hảo, Phật
tướng hảo đệ nhất, họ thấy
tướng hảo của Phật sẽ theo Phật,
học theo Ngài, mục đích của Ngài là ở chỗ
này. Báo Thân Như Lai là b́nh đẳng, nếu chúng ta minh tâm
kiến tánh, sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm của
Phật th́ thân chúng ta và thân Phật chẳng khác, v́ sao?
Từ tự tánh hiển thị, quả thật là vô
thượng phước huệ trang nghiêm, nhưng
chẳng sanh tâm yêu đắm. Yêu đắm là phiền năo,
“yêu” là phân biệt, “đắm” là chấp trước,
lẽ nào sanh ḷng yêu đắm? Không thể nào! Hiện
tiền, trong vô niệm chúng ta phải thường
niệm A Di Đà Phật, chữ “bỉ Phật” [trong đoạn kinh văn
của pháp hội Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí
Nhạo trong kinh Bảo Tích vừa được trích
lục trên đây] chỉ A Di Đà Phật. Niệm
Phật th́ tâm là tâm Phật, tức là như kinh đă nói “niệm Phật làm Phật”.
Vốn là Phật, nay lại làm Phật, há lẽ nào
chẳng thành Phật?
Ở đây, chúng ta đă
học tập xong câu “hà
đẳng danh vi phát thập chủng tâm?” (những ǵ
gọi là phát mười thứ tâm) trong kinh Đại
Bảo Tích. Đối với mười thứ này,
chỉ cần làm được một thứ sẽ
hội đủ điều kiện văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Mười
thứ tâm thảy đều làm được, quyết
định văng sanh, quyết định thấy Phật. “Do thị tâm cố,
đương đắc văng sanh bỉ Phật thế
giới” (do tâm ấy sẽ được văng sanh
thế giới Cực Lạc). “Khả
kiến Di Lặc đại sĩ chánh thị tương
tán Thích Tôn đồng hoằng Tịnh Tông diệu pháp dă”
(có thể thấy Di Lặc đại sĩ thật
sự phụ trợ đức Thích Ca cùng hoằng
dương diệu pháp Tịnh Tông). Đấy là lời kết
luận của cụ Hoàng Niệm Tổ sau đoạn
kinh văn này: Di Lặc Bồ Tát quả thật đang
hiệp trợ Thích Ca Mâu Ni Phật, hiệp trợ A Di
Đà Phật hoằng dương pháp
môn Tịnh Độ. Đương nhiên Di Lặc Bồ
Tát đă ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới; do vậy, đến thế giới Cực
Lạc sẽ thấy chân thân của Di Lặc Bồ Tát.
Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tập tới đây.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa
Phần 47 hết
[1] Thệ Đa là cách phiên âm khác của
chữ Jeta. Thái Tử Kỳ Đà (Jetakumāra) cùng trưởng giả Cấp
Cô Độc xây dựng tinh xá này.
[2] Khúc Lễ là một cuốn sách nhỏ,
không rơ ai là tác giả, được ghép thành một
bộ phận của Lễ Kư. Khúc Lễ ghi chép chi
tiết về những ứng xử nhằm đúng
lễ, đúng mực, kể cả những câu châm ngôn
dạy thái độ sống như “ngạo bất khả trưởng, dục bất
khả tùng, chí bất khả măn, lạc bất khả
cực” (chớ nên tăng trưởng ḷng kiêu ngạo,
chớ nên chạy theo ḷng ham muốn, chớ nên đắc
chí, chớ nên vui sướng quá mức).
[3] Mười ba tông phái của Phật giáo Nhật Bản là 1) Hoa Nghiêm Tông (do Lương Biện sáng lập). 2) Thiên Đài Tông (do Tối Trừng sáng lập). 3) Pháp Tướng Tông (do Đạo Chiêu sáng lập). 4) Luật Tông (do Giám Chân sáng lập). 5) Lâm Tế Tông (do Vinh Tây sáng lập). 6) Tào Động Tông (do Đạo Nguyên và Oánh Sơn sáng lập). 7) Hoàng Bá Tông (do Ẩn Nguyên Long Kỳ sáng lập). 8) Nhật Liên Tông (do Nhật Liên sáng lập). 9) Dung Thông Niệm Phật Tông (do Lương Nhẫn sáng lập). 10) Thời Tông (do Nhất Biến sáng lập). 11) Tịnh Độ Tông (do Pháp Nhiên sáng lập). 12) Tịnh Độ Chân Tông (do Thân Loan sáng lập). 13) Chân Ngôn Tông (do Không Hải sáng lập). Tuy có mười ba tông, nhưng nếu xét đến pháp môn hành tŕ và kinh điển chánh yếu để y cứ th́ chỉ có bảy tông là Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm Tông), Thiên Thai (Thiên Đài Tông, Nhật Liên Tông), Duy Thức (Pháp Tướng Tông), Luật Tông, Thiền Tông (Lâm Tế, Tào Động, Hoàng Bá), Tịnh Độ (Dung Thông Niệm Phật Tông, Thời Tông, Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Chân Tông) và Mật Tông (Chân Ngôn Tông).